1. Vị trí, vai trò của Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 2013
Ở Việt Nam hiện nay, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, các nhánh quyền lực không hoàn toàn độc lập mà có mối quan hệ, phụ thuộc lẫn nhau. Để bảo đảm sử dụng quyền lực nhà nước có hiệu quả thì việc phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là hết sức quan trọng, trong đó, phải tính đến vai trò của Chủ tịch nước, nguyên thủ quốc gia, vị trí quan trọng nhất trong bộ máy nhà nước.
Chế định Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 2013 được quy định tại chương VI với 08 điều, có vai trò phối hợp quyền lực, là bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện các chức năng đối nội, đối ngoại của Nhà nước và cho hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp trong bộ máy nhà nước. Điều 86 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại”. Vị trí “đứng đầu Nhà nước” là vị trí có vai trò định hướng, lãnh đạo, điều phối hoạt động chung của Nhà nước, đồng thời, cũng thể hiện trách nhiệm lớn lao, nghĩa vụ nặng nề của Chủ tịch nước trong mối quan hệ với nhân dân, các nhà nước và các tổ chức khác. Vị trí “thay mặt nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại” thể hiện tính thống nhất về quyền lực nhà nước trong mối quan hệ với bên ngoài. Chủ tịch nước không thuộc về một nhánh quyền lực nhà nước cụ thể nào. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước quy định tại các Điều 88, 89, 90 Hiến pháp năm 2013 thể hiện vị trí đứng đầu Nhà nước, nguyên thủ quốc gia, thay mặt cho đất nước và thể hiện vai trò điều phối trong 03 nhánh quyền lực, đại diện cho sự tập trung, thống nhất, đoàn kết quốc gia, cụ thể:
Trong lĩnh vực lập pháp, Chủ tịch nước có nhiệm vụ và quyền hạn “Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày pháp lệnh được thông qua, nếu pháp lệnh đó vẫn được Ủy ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất” (khoản 1 Điều 88). Quyền của Chủ tịch nước trong lĩnh vực lập pháp còn thể hiện ở việc “Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội” (Điều 90).
Trong lĩnh vực hành pháp, Chủ tịch nước có quyền “tham dự phiên họp của Chính phủ” hoặc “yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước” (Điều 90), thể hiện vai trò của Chủ tịch nước trong việc xem xét, quyết định vấn đề lớn trong quản lý, điều hành đất nước phù hợp với tình hình hiện nay có rất nhiều vấn đề lớn gây bức xức trong dư luận cần được Chủ tịch nước thay mặt cho nhân dân, yêu cầu Chính phủ giải quyết. Chủ tịch nước có quyền đề nghị “Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ” (khoản 2 Điều 88); “quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam” (khoản 5 Điều 88); “căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm; quyết định cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa XHCN Việt Nam; phong hàm, cấp đại sứ” (khoản 5 Điều 88).
Nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước về hành pháp còn thể hiện trong các vấn đề đặc biệt quan trọng của đất nước khi Chủ tịch nước “thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh...; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp... trong cả nước hoặc ở từng địa phương” (khoản 5 Điều 88); “Hội đồng quốc phòng và an ninh trình Quốc hội quyết định tình trạng chiến tranh, trường hợp Quốc hội không thể họp được thì trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định; động viên mọi lực lượng và khả năng của đất nước để bảo vệ Tổ quốc; thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt do Quốc hội giao trong trường hợp có chiến tranh; quyết định việc lực lượng vũ trang nhân dân tham gia hoạt động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới” (Điều 89); hoặc trong lĩnh vực đối ngoại, Chủ tịch nước “Tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài;...; quyết định đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế quy định tại khoản 14 Điều 70; quyết định phê chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế khác nhân danh Nhà nước” (khoản 6 Điều 88). Ngoài ra, Chủ tịch nước còn quyết định các vấn đề quan trọng khác là khen thưởng và quốc tịch khi “quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, các giải thưởng nhà nước, danh hiệu vinh dự nhà nước; quyết định cho nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam” (khoản 4 Điều 88).
Trong lĩnh vực tư pháp, Chủ tịch nước có nhiệm vụ và quyền hạn trong việc quyết định nhân sự chủ chốt, nhân sự cấp cao của các cơ quan tư pháp và quyết định việc khoan hồng đặc biệt cho tội phạm và người bị kết án như: “Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định đặc xá; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, công bố quyết định đại xá” (khoản 3 Điều 88). Chủ tịch nước cũng có trách nhiệm và nghĩa vụ “báo cáo công tác trước Quốc hội” (Điều 87), thể hiện sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
2. Hoàn thiện quy định của pháp luật về hoạt động của Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 2013
Sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, hệ thống pháp luật đã cơ bản được hoàn thiện để đồng bộ với Hiến pháp. Tuy nhiên, hiện có nhiều vướng mắc trong việc xác định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Chủ tịch nước, bởi quy định pháp luật để Chủ tịch nước thực hiện quyền lực của người đứng đầu Nhà nước không tập trung trong một đạo luật riêng, mà nằm rải rác ở nhiều đạo luật như: Luật Tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Quốc phòng, Luật Sỹ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Công an nhân dân, Luật Cảnh sát biển Việt Nam, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Quốc tịch Việt Nam, Luật Thỏa thuận quốc tế, Luật Điều ước quốc tế, Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ở nước ngoài, Luật Đặc xá, Luật Thi đua, khen thưởng... Vấn đề xây dựng Luật về Chủ tịch nước đã được một số đại biểu Quốc hội các khóa trước và một số nhà khoa học, những người làm công tác thực tiễn đề xuất nhưng chưa thực hiện được.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013 về Chủ tịch nước và xuất phát từ thực tiễn, tác giả thấy rằng cần thiết xây dựng Luật về Chủ tịch nước và hoàn thiện quy định trong các đạo luật có liên quan với các lý do sau:
Thứ nhất, Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước nên chỉ quy định các vấn đề lớn, tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước phải được quy định trong một đạo luật riêng. Hiện nay, tổ chức và hoạt động của các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước đều được điều chỉnh bằng một, thậm chí nhiều đạo luật, thì hoạt động của Chủ tịch nước lại không được điều chỉnh bằng một đạo luật riêng là chưa hợp lý. Việc ban hành Luật về Chủ tịch nước sẽ là khung pháp lý quan trọng để Chủ tịch nước thực hiện tốt nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
Thứ hai, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 2013 là quy định chung, mang tính khái quát. Do đó, đồng thời với việc ban hành Luật về Chủ tịch nước để làm rõ mối quan hệ của Chủ tịch nước với các cơ quan trong bộ máy nhà nước được giao thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các đạo luật có liên quan đến Chủ tịch nước để tạo thành hệ thống pháp luật đồng bộ nhằm triển khai thực hiện và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về các nội dung sau:
(i) Quyền của Chủ tịch nước tham dự các phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các phiên họp của Chính phủ được thực hiện thế nào? Tất cả các phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các phiên họp của Chính phủ phải mời Chủ tịch nước tham dự hay chỉ các phiên họp thường kỳ hoặc các phiên họp có nội dung liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước; việc Chủ tịch nước tham dự các phiên họp là tùy nghi hay bắt buộc? Các nội dung này cần được quy định trong Luật về Chủ tịch nước, theo tác giả, cần quy định theo hướng Chủ tịch nước chỉ tham dự các phiên họp có nội dung liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước.
(ii) Trình tự, thủ tục khi Chủ tịch nước yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước? Hiệu lực pháp lý khi Chủ tịch nước yêu cầu Chính phủ họp và thời hạn Chính phủ phải thực hiện? Các nội dung này cần quy định cụ thể khi xây dựng Luật về Chủ tịch nước, vì quy định của Hiến pháp năm 2013 về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ không có điều khoản “ràng buộc” Chính phủ phải có trách nhiệm họp bàn về những vấn đề Chủ tịch nước yêu cầu. Ngoài ra, cần quy định trình tự, thủ tục các phiên họp Chính phủ do Chủ tịch nước yêu cầu; Chủ tịch nước hay Thủ tướng Chính phủ chủ trì? Logic pháp lý thông thường cho thấy, khi Chủ tịch nước chủ trì phiên họp của Chính phủ mới là cơ chế hữu hiệu nhất nhằm “ràng buộc” Chính phủ thảo luận, họp bàn về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước.
(iii) Trình tự, thủ tục khi Chủ tịch nước thực hiện công tác bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức cán bộ trong cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp như: Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ theo Nghị quyết của Quốc hội; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo Nghị quyết của Quốc hội; bổ nhiệm, miễn nhiệm; quyết định cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại các nước theo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh nêu trên và quy trình cử, triệu hồi đại sứ cần nghiên cứu đưa vào Luật về Chủ tịch nước và đồng bộ với quy định của Đảng và quy định của từng ngành.
(iv) Với vai trò “thống lĩnh lực lượng vũ trang”, Chủ tịch nước có nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể gì để xây dựng và chỉ đạo lực lượng vũ trang về tổ chức, bộ máy và hoạt động? Có nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể gì để điều hành hoạt động quốc phòng và an ninh, nhằm chủ động ứng phó trước những diễn biến phức tạp của tình hình đất nước, đặc biệt là tình trạng khẩn cấp, tình trạng chiến tranh. Liên quan đến vấn đề này, Luật Quốc phòng năm 2018 quy định cụ thể hơn về nguyên tắc, chính sách, hoạt động cơ bản về quốc phòng; tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, thiết quân luật, giới nghiêm; lực lượng vũ trang nhân dân; bảo đảm quốc phòng; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức; quyền và nghĩa vụ của công dân về quốc phòng. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước trong Luật Quốc phòng thể hiện ở việc công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; công bố quyết định ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp về quốc phòng; ra lệnh hoặc bãi bỏ lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ra lệnh thiết quân luật (các Điều 17, 18, 19, 21 Luật Quốc phòng năm 2018). Ngoài ra, Chủ tịch nước không có nhiệm vụ và quyền hạn trong xây dựng và chỉ đạo lực lượng vũ trang, điều hành hoạt động quốc phòng và an ninh để tương xứng với vai trò thống lĩnh lực lượng vũ trang. Do vậy, cần xây dựng Luật về Chủ tịch nước và sửa đổi, bổ sung Luật Quốc phòng để cụ thể hóa vai trò thống lĩnh lực lượng vũ trang của Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh về các nội dung như: “Chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách về quốc phòng; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, kế hoạch phòng thủ đất nước, kế hoạch động viên quốc phòng và bảo đảm cho hoạt động quốc phòng, lực lượng vũ trang nhân dân; chỉ đạo công tác đối ngoại quốc phòng”. Với vai trò nguyên thủ quốc gia, thống lĩnh lực lượng vũ trang, Chủ tịch nước quản lý về đường lối quốc phòng, an ninh; công tác xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân nhằm bảo đảm toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh quốc gia; bổ nhiệm nhân sự cấp cao trong Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Các vấn đề mang tính sự vụ còn lại sẽ do Chính phủ thực hiện, Chính phủ là cơ quan thường trực giúp Chủ tịch nước trong quản lý công tác quốc phòng, an ninh. Phân công như vậy vừa bảo đảm quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang của Chủ tịch nước, vừa giúp cho Chủ tịch nước có công cụ để kiểm soát hoạt động của các cơ quan nhà nước khác, đặc biệt là kiểm soát hoạt động của các cơ quan hành pháp. Đây là sự phân công quyền lực hợp lý, đáp ứng được yêu cầu kiểm soát quyền lực nhà nước.
(v) Về hoạt động của Hội đồng quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước làm Chủ tịch Hội đồng, theo khoản 1 Điều 89 Hiến pháp năm 2013: “Hội đồng quốc phòng và an ninh làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số”. Tuy nhiên, trong trường hợp vì lý do khách quan, số lượng thành viên Hội đồng là số chẵn, kết quả biểu quyết của Hội đồng ngang nhau thì giải quyết như thế nào? Vấn đề này sẽ được giải quyết khi có Luật về Chủ tịch nước, quy định theo hướng trong trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo ý kiến của Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, một mặt đề cao hình thức hoạt động tập thể của Hội đồng Quốc phòng và an ninh với việc quyết định theo đa số, mặt khác, cũng tăng cường vai trò cá nhân của Chủ tịch nước với việc thực hiện theo ý kiến của Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh.
(vi) Chủ tịch nước thay mặt Nhà nước về đối ngoại, có nhiệm vụ, quyền hạn trong việc cử, triệu hồi đại sứ; phong hàm, cấp đại sứ; tiếp nhận đại sứ của nước ngoài; đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; phê chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế khác nhân danh Nhà nước. Ngoài ra, Chủ tịch nước có nhiệm vụ quyền hạn gì về đường lối đối ngoại, về tổ chức, bộ máy và hoạt động của cơ quan làm công tác đối ngoại cũng cần phải làm rõ khi xây dựng Luật về Chủ tịch nước.
(vii) Điều 93 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Khi Chủ tịch nước không làm việc được trong thời gian dài thì Phó Chủ tịch nước giữ quyền Chủ tịch nước”. Hiến pháp không quy định cụ thể “một thời gian dài” là bao lâu, nhưng khi ban hành Luật về Chủ tịch nước, cần quy định cụ thể nhằm hạn chế tình trạng tùy nghi cũng như đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước.
(viii) Tổ chức, bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng Chủ tịch nước, cơ quan giúp việc cho Chủ tịch nước và giúp việc cho Hội đồng quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước là Chủ tịch Hội đồng cũng cần quy định trong Luật về Chủ tịch nước, thay cho Quyết định của Chủ tịch nước như hiện nay (Quyết định số 585-QĐ/CTN ngày 16/4/2018).
Thứ ba, ban hành Luật về Chủ tịch nước sẽ điều chỉnh một số nhiệm vụ, quyền hạn mà hiện nay Chủ tịch nước đang thực hiện nhưng Hiến pháp năm 2013 không quy định như:
(i) Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong việc ra lệnh thiết quân luật, theo đó, “khi an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở một hoặc một số địa phương bị xâm phạm nghiêm trọng tới mức chính quyền ở đó không còn kiểm soát được tình hình thì Chủ tịch nước ra lệnh thiết quân luật theo đề nghị của Chính phủ” (khoản 2 Điều 21 Luật Quốc phòng năm 2018). Hiến pháp năm 2013 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước về việc công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, tổng động viên hoặc động viên cục bộ, nhưng không quy định về việc ra lệnh thiết quân luật, nên vấn đề này cần quy định trong Luật về Chủ tịch nước.
(ii) Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong việc hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, theo đó, khi có căn cứ hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Tòa án lập hồ sơ kiến nghị Chủ tịch nước hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, gửi đến Bộ Tư pháp, Bộ Tư pháp thẩm tra và báo cáo Thủ tướng Chính phủ trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định (Điều 33, Điều 34 Luật Quốc tịch năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014). Hiến pháp năm 2013 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong việc quyết định cho nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch hoặc tước quốc tịch Việt Nam nhưng không quy định về việc hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch, nên vấn đề này cần quy định trong Luật về Chủ tịch nước.
(iii) Quyền của Chủ tịch nước trong việc ân giảm án tử hình được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự, theo đó: “Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước... Trường hợp người bị kết án có đơn xin ân giảm hình phạt tử hình thì bản án tử hình được thi hành sau khi Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm” (khoản 1 Điều 367 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi thi hành được thực hiện). Nguyên tắc, điều kiện ân giảm, trình tự, thủ tục, thời hạn thực hiện như thế nào, trước khi quyết định ân giảm hoặc bác đơn xin ân giảm cần phải có ý kiến của các cơ quan nào... cũng cần quy định rõ trong Luật về Chủ tịch nước.
Tóm lại, Chủ tịch nước là một thiết chế độc lập, không nằm ở một trong ba bộ phận quyền lực nhà nước là lập pháp, hành pháp, tư pháp, nhưng có cả ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ở các góc độ khác nhau, ngược lại, Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, đây là một biểu hiện của cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan quyền lực nhà nước ở nước ta. Vai trò rõ nét nhất của Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại, thống lĩnh lực lượng vũ trang. Do đó, việc ban hành Luật về Chủ tịch nước và hoàn thiện quy định pháp luật có liên quan nhằm cụ thể hóa chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp là vấn đề quan trọng và cấp thiết để Chủ tịch nước thực hiện tốt nhiệm vụ và quyền hạn.
Vụ Pháp luật, Văn phòng Chủ tịch nước