80 năm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Từ khát vọng độc lập, tự do đến khát vọng vươn mình của dân tộc
![]() |
Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc. (Ảnh tư liệu) |
Trong ngày tháng mùa Thu lịch sử cách đây 80 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân tộc Việt Nam đã đoàn kết một lòng, tiến hành tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước, đập tan ách thống trị của phát xít, thực dân, phong kiến, giành toàn bộ chính quyền về tay Nhân dân. Sau thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám, ngày 02/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đây, lịch sử Việt Nam đã sang trang mới, Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người tự do, đất nước ta từ xiềng xích, đô hộ thành quốc gia độc lập.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đau đáu một khát vọng “…là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”[1], tiếp nối khát vọng ấy, 80 năm sau, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đang đứng trước cơ đồ, vận hội mới. Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: Đây là “thời điểm ý Đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc… là thời điểm hội tụ tổng hòa các lợi thế, sức mạnh để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc tiếp sau kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội và kỷ nguyên đổi mới”[2].
Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 02/9 không chỉ là dịp để chúng ta tự hào về quá khứ đầy hào hùng, vẻ vang của dân tộc, mà còn là dịp để nhận thức sâu sắc hơn về trách nhiệm với tương lai, vận mệnh của dân tộc. Mỗi bước tiến trên con đường chinh phục khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, cải cách về thể chế; mỗi vị thế của Việt Nam được khẳng định trên trường quốc tế đều là quá trình viết tiếp những trang sử hào hùng của dân tộc. Tinh thần bất diệt của mùa Thu lịch sử năm ấy còn đây, luôn là nguồn sức mạnh để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện thắng lợi mục tiêu tiến bước vào Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam.
[1] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 15, trang 627.
[2] Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm trao đổi chuyên đề Kỷ nguyên phát triển mới Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, https://www.tapchicongsan.org.vn/thong-tin-ly-luan/-/2018/1005102/tong-bi-thu-to-lam-trao-doi-chuyen-de-%E2%80%9Cky-nguyen-phat-trien-moi---ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-viet-nam%E2%80%9D.aspx, truy cập ngày 12/8/2025.
Bài 1: Khát vọng độc lập, tự do: Khơi dậy ngọn lửa cách mạng của dân tộc Việt Nam
![]() |
Từ ngày 25 - 30/12/1920, chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc (tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian hoạt động cách mạng ở Pháp) tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours với tư cách đại biểu Đông Dương. Nguyễn Ái Quốc ủng hộ Luận cương của Lê-nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa; tán thành việc thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, cũng là người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam. (Ảnh: Tư liệu) |
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời soi sáng, dẫn đường cho Cách mạng Việt Nam
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, phong trào yêu nước của dân tộc ta dù dâng cao mạnh mẽ, nhưng liên tiếp thất bại. Nguyên nhân chính là thiếu một đường lối đúng đắn và một tổ chức lãnh đạo thống nhất. Những cuộc khởi nghĩa do các anh hùng dân tộc, như Trương Định, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám lãnh đạo đều mang đậm tinh thần quật cường, bất khuất trước kẻ thù, nhưng do thiếu hụt về tổ chức, chiến lược và sự liên kết giữa các phong trào đã khiến những nỗ lực này không thể đạt được mục tiêu giải phóng đất nước khỏi ách thống trị thực dân. Cách mạng Việt Nam vì thế lâm vào khủng hoảng sâu sắc cả về đường lối và tổ chức.
Nhận thấy lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết của Nhân dân ta có thể kết tụ thành sức mạnh dân tộc nếu có một tổ chức thống nhất, uy tín lãnh đạo, ngày 03/02/1930, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ra đời như một ngọn cờ quy tụ các tầng lớp Nhân dân, thắp lên khát vọng giải phóng dân tộc và khơi dậy sức mạnh đoàn kết toàn dân. Từ đây, cách mạng Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới với đường lối rõ ràng, tổ chức thống nhất và phương pháp đấu tranh hiệu quả.
Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng cách mạng chân chính, Nhân dân ta đã dành thắng lợi vĩ đại đầu tiên - Cách mạng tháng Tám năm 1945. Thắng lợi ấy là minh chứng cho bản lĩnh, trí tuệ của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối đấu tranh đúng đắn, tầm nhìn chiến lược và sự nhạy bén, nắm bắt, chớp thời cơ.
Cách mạng tháng Tám năm 1945
Thắng lợi của tinh thần đoàn kết, ý chí quật cường của dân tộc và sự nhạy bén, sáng tạo của Đảng
Ngày 09/3/1945 phát xít Nhật đảo chính gạt bỏ thực dân Pháp để độc chiếm Ðông Dương. Thường vụ Trung ương Ðảng đã kịp thời ra bản Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12/3/1945). Chỉ thị nêu rõ kẻ thù của cách mạng là phát xít Nhật, vì vậy đưa ra khẩu hiệu “Ðánh đuổi phát xít Nhật”. Ðảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, cao trào cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Tháng 4/1945 các lực lượng vũ trang cách mạng thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân. Tại Tân Trào (Tuyên Quang), Hội nghị toàn quốc của Ðảng họp từ ngày 13 đến 15/8/1945 quyết định: Phải kịp thời phát động Tổng khởi nghĩa toàn quốc, phải giành chính quyền trước khi quân đồng minh kéo vào nước ta và thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do Tổng Bí thư Trường Chinh phụ trách, ban bố Quân lệnh số 1 ra lệnh khởi nghĩa.
![]() |
Ngày 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Thực hiện Chỉ thị, một cao trào cách mạng đã xuất hiện ở nhiều nơi; khu giải phóng Việt Bắc gồm 6 tỉnh được thành lập kêu gọi đồng bào dũng cảm tiến lên dưới ngọn cờ của Việt Minh hãy “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Trong ảnh: Nhân dân ở nhiều địa phương nổi dậy đánh chiếm kho thóc Nhật để cứu đói. (Ảnh: Tư liệu) |
Khi được tin Nhật đầu hàng đồng minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ngắn Hội nghị và triệu tập ngay Quốc dân đại hội (16 và 17/8/1945), thông qua 10 chính sách của Việt Minh, lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam như một Chính phủ lâm thời, làm lễ tuyên thệ, thông qua Quốc kỳ, Quốc ca. Quốc dân đại hội đã hoàn thành nhiệm vụ như một Quốc hội dân cử. Ngay sau Đại hội, Bác có Thư kêu gọi toàn quốc đồng bào làm tổng khởi nghĩa “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy. Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”[1]. Với những quyết định lịch sử đó, toàn quốc đã nhất tề hành động. Từ ngày 14 đến ngày 18/8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra và giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam... Ngày 19/8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế, Bắc Kạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu... Ngày 25/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền. Tổng khởi nghĩa đã thành công trong cả nước - đánh dấu mốc son chói lọi, vẻ vang của toàn thể dân tộc ta.
Có thể thấy, Cách mạng tháng Tám năm 1945 là cuộc vùng dậy và chiến đấu anh dũng của cả dân tộc, là đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh đoàn kết toàn dân, thể hiện tầm cao trí tuệ dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, Cách mạng tháng Tám là cuộc cách mạng vĩ đại nhất, là trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất. Với Cách mạng tháng Tám “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”[2]. Cách mạng tháng Tám làm nên “cuộc đổi đời” cho toàn dân tộc. Từ thân phận nô lệ, Nhân dân ta trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.
[1] Duy Hoàn, Ngày 18/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, https://www.qdnd.vn/tu-lieu-ho-so/ngay-nay-nam-xua/ngay-18-8-1945-chu-tich-ho-chi-minh-viet-thu-keu-goi-tong-khoi-nghia-699780, truy cập ngày 15/8/2025.
[2] Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 4, trang 03.
![]() |
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 05 đến 10/9/1960. (Ảnh tư liệu) |
Tổng kết về Cách mạng Tháng Tám, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng chỉ rõ: “Nếu Đảng ta trước đó không xây dựng lực lượng vũ trang và thành lập những khu căn cứ rộng lớn để làm chỗ dựa cho lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh chính trị, và khi điều kiện đã chín muồi không mau lẹ phát động cuộc khởi nghĩa vũ trang thì cách mạng cũng không thể mau chóng giành được thắng lợi”[1]. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết tinh của một quá trình đấu tranh bền bỉ, là đỉnh cao của nghệ thuật chớp thời cơ và đại đoàn kết. Dưới sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc đã chung một ý chí, triệu người như một, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, dân tộc, nhất tề đứng lên giành chính quyền. Sức mạnh của Cách mạng Tháng Tám chính là sức mạnh của “thế trận lòng dân”, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
[1] Văn kiện Đảng toàn tập (2002), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 21, trang 631.
Tuyên ngôn Độc lập - bản hùng ca thiêng liêng, bất tử - hiện thực hóa khát vọng độc lập, tự do của dân tộc
Ngày 28/8/1945, thực hiện sự phân công của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, tại chiếc bàn ăn trên gác hai nhà số 48 phố Hàng Ngang, Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung toàn bộ trí lực và tình cảm để soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Nhằm huy động trí tuệ tập thể, ngày 30/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời một số đồng chí đến trao đổi, góp ý vào văn kiện quan trọng này. Sau khi suy ngẫm, trăn trở, Người quyết định bổ sung một số điểm vào bản Tuyên ngôn và được Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhất trí thông qua trước khi công bố.
Từ sáng sớm ngày 02/9/1945, cả Hà Nội đã bừng lên một màu cờ đỏ sao vàng rực rỡ. Nhiều biểu ngữ bằng các thứ tiếng Việt, Pháp, Nga, Anh, Trung được chăng khắp các tuyến phố: “Ủng hộ Chính phủ lâm thời”, “Ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh”, “Nước Việt Nam của người Việt Nam…”. Vào đúng 14 giờ tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trong không khí trang nghiêm, dưới lá cờ đỏ sao vàng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” trịnh trọng tuyên bố với toàn thể Nhân dân, với thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
![]() |
Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình. (Ảnh tư liệu) |
Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý vĩnh cữu “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”, “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”, “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Bản Tuyên ngôn Độc lập trịnh trọng tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, thủ tiêu hoàn toàn chính quyền thực dân, phong kiến, khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc Việt Nam trước toàn thể thế giới. Lời tuyên bố dõng dạc ấy vẫn vang vọng khắp không gian, trường tồn với thời gian và khắc sâu vào trái tim mỗi người dân Việt Nam về “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của thực dân Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phía Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”.
Bản Tuyên ngôn độc lập tuy ngắn gọn nhưng chứa đựng những nội dung bất hủ không chỉ có giá trị lịch sử đối với dân tộc Việt Nam mà còn có ý nghĩa thời đại sâu sắc. Tuyên ngôn độc lập là áng “thiên cổ hùng văn” kết tinh truyền thống lịch sử kiên cường, bất khuất của dân tộc ta, là bản anh hùng ca hiện thực hóa kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - Kỷ nguyên độc lập, tự do, góp phần tô thắm thêm lịch sử vẻ vang của dân tộc và làm phong phú về quyền tự quyết của các dân tộc trên thế giới - Quyền độc lập tự do./.
![]() |
Bản Tuyên ngôn độc lập của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. (Ảnh: tư liệu) |
Quỳnh Vũ - Hoàng Trung
Tài liệu tham khảo:
1. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 4;
2. Văn kiện Đảng toàn tập (2002), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 21;
3. Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm trao đổi chuyên đề Kỷ nguyên phát triển mới Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, https://www.tapchicongsan.org.vn/thong-tin-ly-luan/-/2018/1005102/tong-bi-thu-to-lam-trao-doi-chuyen-de-%E2%80%9Cky-nguyen-phat-trien-moi---ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-viet-nam%E2%80%9D.aspx;
4. Duy Hoàn, Ngày 18/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, https://www.qdnd.vn/tu-lieu-ho-so/ngay-nay-nam-xua/ngay-18-8-1945-chu-tich-ho-chi-minh-viet-thu-keu-goi-tong-khoi-nghia-699780.