80 năm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Từ khát vọng độc lập, tự do đến khát vọng vươn mình của dân tộc
|
Toàn cảnh Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. (Ảnh tư liệu) |
Bài 2: Khát vọng thống nhất, phát triển
-Thời kỳ Đổi mới của dân tộc Việt Nam
Sau khi chiến tranh kết thúc, đất nước thống nhất, hòa bình lập lại, nhưng với một nền kinh tế lạc hậu, bị cấm vận, quốc tế cô lập, cơ sở hạ tầng, giao thông bị tàn phá… Việt Nam bước vào giai đoạn khủng hoảng về kinh tế, lạm phát, đời sống nhân dân gặp vô vàn khó khăn. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 đã đưa ra quyết định lịch sử, tạo bước ngoặt cho chặng đường phát triển của đất nước, đó là: Thực hiện công cuộc Đổi mới toàn diện, đồng bộ và trọng tâm là đổi mới về kinh tế.
Đổi mới không có nghĩa là thay đổi mục tiêu
![]() |
Ngày 02/9/1945 đã trở thành mốc son hào hùng trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc. (Ảnh tư liệu)
Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo thực hiện công cuộc Đổi mới không nhằm mục đích thay đổi mục tiêu. Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, Đảng ta đã luôn kiên định với mục tiêu: Phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gồm 08 đặc trưng cơ bản: (i) Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; (ii) Do Nhân dân làm chủ; (iii) Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; (iv) Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; (v) Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; (vi) Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; (vii) Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; (viii) Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Mục tiêu này được hình thành từ trong lý luận, thực tiễn và được bổ sung, phát triển qua các kỳ Đại hội Đảng. Việc Đảng phát động công cuộc Đổi mới là để hướng tới thực hiện mục tiêu này một cách hiệu quả hơn, ở trình độ cao hơn, đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng và tình trạng kém phát triển, gắn tăng trưởng kinh về với phát triển văn hóa, xã hội, con người; nâng cao đời sống nhân dân. Để công cuộc Đổi mới thành công, Đảng ta đã xác định đổi mới toàn diện, đồng bộ nhưng có trọng tâm, trọng điểm: Đặt đổi mới tư duy lên hàng đầu để mở đường và định hướng cho quá trình đổi mới; phát triển kinh tế là trung tâm và đi trước một bước; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng - an ninh là trọng yếu, thường xuyên; lấy sự ổn định chính trị - xã hội làm tiền đề, điều kiện tiên quyết cho sự nghiệp đổi mới và phát triển.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là trung tâm của công cuộc Đổi mới đất nước
|
Toàn cảnh Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, 6/1996. (Ảnh tư liệu) |
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng đã xác định kinh tế thị trường là thành tựu của văn minh nhân loại mà chúng ta cần áp dụng. Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3/1989) đã phát triển thêm một bước khi đưa ra quan điểm phát triển kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý cùa Nhà nước[1]. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996), Đảng ta đã đưa ra một kết luận mới rất quan trọng, đó là “sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”[2]. Đảng ta đã thay đổi nhận thức, khẳng định kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại và Việt Nam tất yếu phải sử dụng như một phương tiện chính yếu để phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Chính sự đòi hỏi cấp bách của thực tiễn và những bước đột phá về tư duy đã tạo nên nhận thức mới về quy luật phát triển trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tạo ra bước đột phá lớn và toàn diện, đưa đất nước bước sang một giai đoạn phát triển mới, chuyển từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa[3].
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2019), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ Đổi mới, phần I (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2019), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ Đổi mới, phần I (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Tlđd.
[3] NCS Nguyễn Thị Ngọc Lan, ThS. Trần Thị Ngọc Thúy, Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thời kỳ đổi mới, https://lyluanchinhtri.vn/quan-diem-cua-dang-cong-san-viet-nam-ve-phat-trien-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-thoi-ky-doi-moi-5583.html, truy cập ngày 15/8/2025.
Phát triển con người, văn hóa, xã hội là nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của công cuộc Đổi mới nhằm tạo sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng cho quá trình phát triển đất nước
Với quan điểm con người là trung tâm của chiến lược phát triển, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, đồng thời cũng là chủ thể của công cuộc Đổi mới, vì vậy, Đảng ta đã tiến hành đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn liền với đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến. Đảng ta xác định phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Bên cạnh giáo dục, đào tạo, Đảng ta đặt nhiệm vụ xây dựng hệ giá trị Việt Nam đặc trưng trong giai đoạn mới đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Nâng cao đời sống mọi mặt của người dân thông qua thực hiện đồng bộ các chính sách về dân số, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống, văn hóa, tinh thần… nhằm xây dựng môi trường sống lành mạnh, văn minh, an toàn cho toàn thể Nhân dân.
Mở rộng quan hệ đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng
Định hướng chiến lược quan trọng của Đảng trong công cuộc Đổi mới
Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng là sự kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hóa văn hóa nhân loại và tư tưởng tiến bộ của thời đại, chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”[1].
[1] Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, trang 183 - 184.
![]() |
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp và nói chuyện thân mật với đồng chí Kaysone Phomvihane, Trưởng Đoàn đại biểu Đảng và Mặt trận Lào yêu nước sang thăm hữu nghị Việt Nam (1966). (Ảnh tư liệu)
Hội nhập quốc tế là chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong suốt thời kỳ Đổi mới. Mỗi kỳ Đại hội, chủ trương hội nhập quốc tế lại được điều chỉnh, bổ sung, mở rộng cả về phạm vi, cấp độ và tâm thế để phù hợp với sự phát triển của đất nước và bối cảnh thế giới. Từ khởi đầu bằng cách tiếp cận mới về chủ trương tham gia phân công lao động quốc tế (Đại hội VI), mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại (Đại hội VII), tới chủ trương từng bước hội nhập kinh tế khu vực, lấy hội nhập khu vực làm tiền để để hội nhập thế giới (Đại hội XIII). Đảng ta không chỉ xác định “chủ động” mà còn “tích cực” hội nhập quốc tế. Từ đó, tiếp tục khẳng định và mở rộng phạm vi, lĩnh vực và tính chất hội nhập quốc tế của nước ta, đó là hội nhập quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu, thực hiện hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước. “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”[1]. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, yếu tố toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả trong hội nhập quốc tế đã được xác định rõ hơn “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, trang 79.
![]() |
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bí thư thứ nhất Lê Duẩn dự Đại hội lần thứ XXII của Đảng Cộng sản Liên Xô, năm 1961. (Ảnh tư liệu)
Xây dựng và phát huy dân chủ, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân - Mục tiêu căn bản của công cuộc Đổi mới
|
|
Khái niệm “Nhà nước pháp quyền” lần đầu tiên được sử dụng trong Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994). Tuy nhiên, đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (năm 2001), “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” mới được coi là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược và xuyên suốt của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tinh thần này được khẳng định trong Văn kiện các Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, XII của Đảng, khi Đảng ta coi “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo” là một trong 08 đặc trưng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa mà Nhân dân Việt Nam đang xây dựng. Mục tiêu căn bản của công cuộc Đổi mới nói chung, của đổi mới chính trị và đổi mới hệ thống chính trị nói riêng ở nước ta chính là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Theo đó xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân là một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trọng sạch, vững mạnh đóng vai trò then chốt, quyết định sự thành công của công cuộc Đổi mối đất nước
Trong công cuộc Đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ từng vị trí, vai trò của từng lĩnh vực trong tổng thể đường lối xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Như vậy, xây dựng Đảng được xác định là nhiệm vụ then chốt, bởi Đảng có trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao mới có khả năng tổ chức và thực thiện hành công đường lối chính trị đúng đắn, xây dựng niềm tin của Nhân dân đối với Đảng. Xây dựng Đảng, vì thế trở thành khâu đột phá, mở đường cho mọi đổi mới trên các lĩnh vực khác. Đặc biệt từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đến nay, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng thật sự được đặt ở vị trí then chốt, có vai trò quan trọng đối với những thành công to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới[1].
[1] GS.TS. Tạ Ngọc Tấn & PGS.TS, Nguyễn Chí Hiếu, Những thành tựu lý luận lớn của Đảng qua gần 40 năm đổi mới, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/nhung-thanh-tuu-ly-luan-lon-cua-dang-qua-gan-40-nam-doi-moi, truy cập ngày 15/8/2025.
Cơ đồ, tiềm lực và vị thế của Việt Nam sau 40 năm Đổi mới
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đến nay đã thu được “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”[1]. Những thành tựu đó đã tạo ra thế và lực mới cho cách mạng Việt Nam, nâng tầm trí tuệ, bản lĩnh chính trị của Đảng, đưa cách mạng Việt Nam, dân tộc Việt Nam lên tầm thời đại, được Nhân dân phấn khởi, bạn bè thế giới tôn trọng và khâm phục.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, trang 103.
![]() |
Kinh tế Việt Nam không ngừng tăng trưởng với những con số ấn tượng: Việt Nam từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, hằng năm phải nhập khẩu lương thực, đến hết năm 2024, quy mô GDP của nước ta đạt 470 tỷ USD, tăng gấp 96 lần năm 1986, gấp 2,5 lần năm 2011, đứng thứ 4 trong ASEAN, đứng thứ 32 thế giới (đứng thứ 24 thế giới tính theo sức mua tương đương - PPP). Thu nhập bình quân đầu người năm 2024 đạt 4.700 USD/người/năm[1]. Dự kiến đến cuối năm 2025, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam vượt 5000 USD/người/năm, gấp gần 25 lần sau ba thập kỷ và sẽ bước vào nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình cao[2]. Cơ cấu nền kinh tế đã và đang được chuyển dịch theo hướng hiện đại, bền vững, giảm tỉ trọng của ngành nông nghiệp, tăng tỉ trọng đóng góp của ngành công nghiệp và dịch vụ. Từ một nước bị bao vây, cấm vận trước đổi mới, đến nay, Việt Nam đã phát triển quan hệ thương mại với hơn 230 nền kinh tế trên thế giới với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2024 đạt gần 800 tỷ USD, trong đó xuất siêu đạt khoảng 23 tỷ USD, đã trở thành đối tác thương mại thuộc nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu[3].
Văn hóa, xã hội phát triển - nâng cao giá trị nhân văn của con người Việt Nam: Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã có những chuyển biến tích cực góp phần hoàn thành chung các mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở. Phong trào “Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh” được triển khai rộng rãi và đi vào chiều sâu, thu được kết quả tích cực; xây dựng văn hóa lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, khu công nghiệp và mỗi gia đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống. Các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, từ thiện, nhân đạo rộng khắp, thể hiện đạo lý của dân tộc và những giá trị nhân văn của con người Việt Nam.
Giáo dục và y tế, an sinh xã hội được cải thiện, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu của người dân: Giáo dục Việt Nam có nhiều phát triển vượt bậc và đạt được những thành tựu quan trọng, đã hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2014; gần 99% người lớn biết đọc, biết viết. Số sinh viên đại học, cao đẳng ở Việt Nam tăng gần 20 lần trong gần 40 năm qua, đạt 215 người/1 vạn dân. Học sinh Việt Nam đạt thứ hạng cao trong các cuộc thi trên thế giới và khu vực. Đời sống văn hóa trong cả nước được cải thiện đáng kể. Sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú và đa dạng. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được bảo tồn, phát huy trong giáo dục con người và phát triển kinh tế du lịch[4].
Từ một đất nước bị chiến tranh tàn phá, hệ thống các cơ sở y tế còn hạn chế, sau 40 năm thực hiện Đổi mới, quy mô và năng lực cung ứng dịch vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân ngày càng được nâng cao. Hệ thống y tế các tuyến từ trung ương đến địa phương ngày càng được củng cố và phát triển. Các hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu, y tế dự phòng, công tác kiểm soát bệnh truyền nhiễm và bệnh không lây nhiễm được đẩy mạnh. Ngân sách nhà nước và nguồn lực xã hội đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho Nhân dân ngày càng tăng. Xã hội hóa công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho Nhân dân được đẩy mạnh và đạt được nhiều tiến bộ. Đến hết năm 2023, số bác sĩ trên 10.000 dân đạt 12,5 bác sĩ. Số giường bệnh trên 10.000 dân đạt 32 giường bệnh. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 93,2% dân số. Tuổi thọ trung bình tăng từ 71,3 năm 2002 lên 73,7 năm 2023[5].
Đường lối đối ngoại “cây tre Việt Nam” giúp khẳng định vị thế của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế: Nghị quyết số 13/NQ-TW ngày 20/5/1988 của Bộ Chính trị khóa VI về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới, thể hiện bước chuyển mang tính bước ngoặt trong tư duy đối ngoại và đặt nền móng cho chủ trương “đa phương hóa, đa dạng hóa” của Đảng, Nhà nước Việt Nam, đã bắt đầu một trang mới trong lịch sử ngoại giao nước nhà. Từ một nước bị bao vây, cấm vận, đến nay, Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 nước[6]. Đặc biệt, nước ta đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 13 nước (Trung Quốc, Liên bang Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia, Pháp, Malaysia, New Zealand, Indonesia, Singapore, Thái Lan), có quan hệ kinh tế - thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới[7]. Đó là kết quả nổi bật của đường lối đối ngoại, ngoại giao độc lập, tự chủ, toàn diện, giữ vững nguyên tắc chiến lược nhưng hết sức linh hoạt, mềm dẻo về sách lược mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”.
An ninh - quốc phòng giữ vững, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia: Qua 40 năm đổi mới, nhận thức, tư duy lý luận của Đảng về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển và ngày càng được hoàn thiện, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân; lực lượng vũ trang nhân dân không ngừng lớn mạnh, đủ sức hoàn thành thành mọi nhiệm vụ trong bối cảnh khu vực và quốc tế có nhiều biến động.
[1] Cơ quan Thống kê Quốc gia (2025), Một số điểm sáng tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2024, https://www.nso.gov.vn/tin-tuc-thong-ke/2025/01/mot-so-diem-sang-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2024, truy cập ngày 15/8/2025.
[2] Cơ quan Thống kê Quốc gia (2025), Tlđd.
[3] Cơ quan Thống kê Quốc gia (2025), Tlđd.
[4] TS. Vũ Văn Long, Việt Nam sau 40 năm đổi mới - thành tựu và những thách thức, https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/07/31/viet-nam-sau-40-nam-doi-moi-thanh-tuu-va-nhung-thach-thuc/, truy cập ngày 15/8/2025.
[5] Năm 2023, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đạt 73,7 tuổi, https://dantri.com.vn/suc-khoe/nam-2023-tuoi-tho-trung-binh-cua-nguoi-viet-dat-737-tuoi-20231230074951090.htm, truy cập ngày 15/8/2025 .
[6] Xuân Tú - Bá Thành, Việt Nam vươn lên mạnh mẽ, ghi dấu ấn đậm nét với vị thế quốc tế ngày càng cao, https://ttdn.vn/nghien-cuu-trao-doi/su-kien-binh-luan/viet-nam-vuon-len-manh-me-ghi-dau-an-dam-net-voi-vi-the-quoc-te-ngay-cang-cao-115995, truy cập ngày 15/8/2025.
[7] PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn, Phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong thu hút nguồn lực bên ngoài nhằm thực hiện các đột phá chiến lược, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/phat-huy-vai-tro-tien-phong-cua-doi-ngoai-trong-thu-hut-nguon-luc-ben-ngoai-nham-thuc-hien-cac-dot-pha-chien-luoc, truy cập 15/8/2025.
Qua 40 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được phát triển và hoàn thiện. Công cuộc Đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ năm 1986 đến nay thu được những thắng lợi, thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; đưa đất nước ta từ một nước nghèo trên thế giới trở thành nước đang phát triển. Đất nước ta được xây dựng ngày càng đàng hoàng hơn, đời sống của Nhân dân ta ngày càng được cải thiện căn bản, toàn diện hơn, vị thế của đất nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, tạo niềm tin của Nhân dân đối với Đảng. Một niềm tin son sắt: Đảng sẽ tiếp tục hoàn thành xuất sắc trọng trách của mình, đưa Việt Nam trở thành một đất nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.
Quỳnh Vũ - Hoàng Trung
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ Đổi mới, phần I (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019;
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016;
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021;
4. Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022.
5. NCS Nguyễn Thị Ngọc Lan, ThS. Trần Thị Ngọc Thúy, Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thời kỳ đổi mới, https://lyluanchinhtri.vn/quan-diem-cua-dang-cong-san-viet-nam-ve-phat-trien-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-thoi-ky-doi-moi-5583.html;
6. GS.TS. Tạ Ngọc Tấn & PGS.TS, Nguyễn Chí Hiếu, Những thành tựu lý luận lớn của Đảng qua gần 40 năm đổi mới, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/nhung-thanh-tuu-ly-luan-lon-cua-dang-qua-gan-40-nam-doi-moi.
7. Cơ quan Thống kê Quốc gia (2025), Một số điểm sáng tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2024, https://www.nso.gov.vn/tin-tuc-thong-ke/2025/01/mot-so-diem-sang-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2024.
8. TS. Vũ Văn Long, Việt Nam sau 40 năm đổi mới - thành tựu và những thách thức, https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/07/31/viet-nam-sau-40-nam-doi-moi-thanh-tuu-va-nhung-thach-thuc/;
9. Xuân Tú - Bá Thành, Việt Nam vươn lên mạnh mẽ, ghi dấu ấn đậm nét với vị thế quốc tế ngày càng cao, https://ttdn.vn/nghien-cuu-trao-doi/su-kien-binh-luan/viet-nam-vuon-len-manh-me-ghi-dau-an-dam-net-voi-vi-the-quoc-te-ngay-cang-cao-115995;
10. PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn, Phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong thu hút nguồn lực bên ngoài nhằm thực hiện các đột phá chiến lược, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/phat-huy-vai-tro-tien-phong-cua-doi-ngoai-trong-thu-hut-nguon-luc-ben-ngoai-nham-thuc-hien-cac-dot-pha-chien-luoc.