Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, trao đổi về vai trò của luật sư trong tranh tụng vụ án hình sự, nêu lên một số khó khăn, vướng mắc, từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của luật sư trong xét xử vụ án hình sự.
Abstract: The article researches and discusses the role of lawyers in criminal litigation, raises a number of difficulties and obstacles, thereby, proposes solutions to improve the role of lawyers in the trial of criminal cases.
1. Tranh tụng và vấn đề bảo đảm tranh tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ra đời đã thể chế hóa thuật ngữ “tranh tụng” thành một nguyên tắc cơ bản cần được bảo đảm trong quá trình xét xử vụ án hình sự[1]. Theo đó, tranh tụng trong vụ án hình sự (VAHS) có thể hiểu đó là việc các chủ thể tố tụng (bên buộc tội và bên gỡ tội) đưa ra quan điểm, chứng cứ của mình để tranh luận tại các giai đoạn tố tụng nhằm bảo vệ quan điểm của mình, bác bỏ quan điểm của bên đối lập, góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, làm cơ sở để Tòa án đưa ra phán quyết công bằng, phù hợp với quy định của pháp luật. Đây là một trong những nội dung được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chỉ đạo nâng cao chất lượng như: (i) Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp[2]; (ii) Khi xét xử, Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, việc xét xử của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo… Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng (tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa…)[3].
Hiện nay, bảo đảm tranh tụng trong xét xử đã trở thành một nguyên tắc không thể thiếu trong xét xử VAHS. Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử không chỉ được quy định trong Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 mà còn được quy định cả trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, theo đó: “Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử. Việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo quy định của luật tố tụng”[4].
2. Vai trò của luật sư trong việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng vụ án hình sự ở Việt Nam
Việc triển khai những quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tranh tụng vụ án hình sự trong hơn thập kỷ qua đã góp phần nâng cao vị trí, vai trò của luật sư trong việc thực hiện chức năng bảo vệ công lý, phát huy dân chủ thông qua việc thực hiện chức năng tố tụng để giúp cá nhân, tổ chức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp đã được Hiến pháp và pháp luật quy định.
Trong một VAHS, luật sư tham gia có thể với các tư cách khác nhau. Họ có thể là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Họ cũng có thể là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, người liên quan… Dù với tư cách nào, luật sư đều cố gắng thực hiện hết trách nhiệm trong phạm vi quyền và nghĩa vụ của mình, thực hiện tốt chức năng xã hội của luật sư đã được luật định[5]. Quá trình tham gia tố tụng, luật sư đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực thi nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử, bảo đảm cho vụ án được xét xử một cách khách quan, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, cụ thể:
Một là, luật sư đưa ra chứng cứ, yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Quá trình tham gia tố tụng và nghiên cứu hồ sơ vụ án, luật sư cần có sự đối chiếu kiểm tra các chứng cứ xem các chứng cứ đó có thể hiện tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp hay không, để trên cơ sở đó dự liệu các tình huống có thể phát sinh tại phiên tòa. Nếu phát hiện thấy có nhân chứng mới hoặc cần thiết phải có người giám định, người phiên dịch, người dịch thuật để bảo đảm cho vụ án được giải quyết khách quan, luật sư cần đề nghị cơ quan tố tụng triệu tập những người này. Trong trường hợp có thêm những chứng cứ, tài liệu, đồ vật mới mà luật sư thu thập được thì luật sư cần xuất trình tại phiên tòa để Hội đồng xét xử (HĐXX) xem xét. Trong trường hợp phát hiện thấy việc điều tra không đầy đủ, phiến diện, các chứng cứ được thu thập không tuân theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thiếu các chứng cứ quan trọng, có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án hoặc phát hiện thấy có sự vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng làm sai lệch bản chất vụ án, có những tình tiết cần làm rõ mà không thể bổ sung tại phiên tòa thì luật sư cần thiết phải có ý kiến với HĐXX và viện dẫn những căn cứ để trả hồ sơ để điều tra bổ sung[6].
Hai là, luật sư chủ động thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình trong quá trình tham gia tố tụng.
Trong suốt quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa xét xử, luật sư thực hiện một số quyền cơ bản như quyền được tiếp xúc với người bị buộc tội[7]. Quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm nhân dân) người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật nếu thấy họ không khách quan, vô tư. Luật sư thực hiện quyền đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyền đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền được thu thập và xuất trình chứng cứ, đồ vật, tài liệu; quyền được kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu kiểm sát viên hay HĐXX đánh giá; quyền đề nghị HĐXX tiến hành thu thập chứng cứ, yêu cầu giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản theo quy định[8]. Quyền đặc biệt và quan trọng nhất mà luật sư có được là quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa[9]. Đây là những quyền năng làm nổi bật vị trí, vai trò của luật sư tại phiên tòa. Tại phiên tòa xét xử, khi có những tình huống phát sinh, luật sư luôn có sự chủ động và dự liệu để ứng phó với những tình huống phát sinh đó.
Đối với trường hợp người bị hại, nhân chứng, người giám định, người phiên dịch vắng mặt tại phiên tòa mà lời khai của họ có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án thì luật sư phải kiên quyết đề nghị HĐXX hoãn xét xử[10]. Trường hợp có căn cứ cho rằng kiểm sát viên hoặc một trong các thành viên HĐXX, thư ký Tòa án, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật có mâu thuẫn với thân chủ của mình và nếu để họ tiếp tục tham gia vụ án thì có thể có những yếu tố bất lợi cho thân chủ thì luật sư cần chủ động đề nghị HĐXX thay đổi những người đó[11]. Luật sư thực hiện quyền này một cách độc lập không phụ thuộc vào việc người mà mình bảo vệ của mình có đồng ý hay không.
Giai đoạn xét hỏi không kém phần quan trọng, nó thể hiện vai trò và bản lĩnh của luật sư. Khi gặp trường hợp kiểm sát viên đặt những câu hỏi phiến diện, thiếu khách quan, mang tính áp đặt đối với thân chủ thì luật sư sẽ có ý kiến để ngăn chặn bất cứ sự áp lực nào với mục đích tạo tâm lý ổn định và sự bình tĩnh cho bị cáo, nhất là những bị cáo là người chưa thành niên.
Tại phần tranh tụng, luật sư thể hiện quyền bào chữa của mình thông qua quan điểm, lập luận để tranh luận với kiểm sát viên và thuyết phục HĐXX. Trong trường hợp HĐXX cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án, luật sư cần có ý kiến để chứng minh cho HĐXX thấy rằng những điều mình nói không nằm ngoài phạm vi mà mình bảo vệ. Trường hợp kiểm sát viên chưa đáp lại những ý kiến tranh luận của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác thì luật sư cần yêu cầu HĐXX đề nghị kiểm sát viên phải đối đáp theo quy định[12].
Ba là, luật sư phát huy tối đa quyền lợi của khách hàng là bị hại, người liên quan.
Khi tham gia phiên tòa, để đạt kết quả cao, luật sư thường cố gắng vận dụng và phát huy khả năng của mình để thực hiện nhiệm vụ. Bên cạnh đó, luật sư sử dụng tài đối đáp và tài hùng biện thông qua việc trình bày quan điểm bảo vệ một cách lôgíc, rõ ràng, khúc chiết, thấu tình đạt lý và vận dụng một cách thuyết phục bằng các căn cứ mà pháp luật quy định nhằm thu hút sự ủng hộ và đồng tình của HĐXX. Tại phần tranh luận, luật sư có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với kiểm sát viên về những chứng cứ xác định có tội hay vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án[13].
3. Một số khó khăn, vướng mắc ảnh hưởng đến hoạt động tranh tụng của luật sư trong xét xử vụ án hình sự
Thứ nhất, thực tế thời gian qua, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử có lúc, có nơi chưa được bảo đảm vì hoạt động tham gia tranh tụng của luật sư trong phần xét hỏi và tranh luận vẫn còn bị hạn chế: Trong khi hỏi, tranh luận luật sư thường bị chủ tọa phiên tòa ngắt lời, dừng chuyển sang nội dung khác, ảnh hưởng đến tâm lý và chất lượng của người biện hộ; tại phiên tòa thực tế, kiểm sát viên thường chỉ đọc bản cáo trạng, đưa ra luận tội và gần như không tham gia tranh luận với luật sư; nhiều HĐXX vẫn chủ yếu căn cứ vào nội dung hồ sơ vụ án và bản cáo trạng để tiến hành hoạt động xét xử mà chưa thực sự coi trọng nội dung, diễn biến tranh luận thực tế tại phiên tòa dẫn đến việc thực hiện tranh tụng dân chủ vẫn mang tính hình thức.
Thứ hai, còn thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là cơ chế bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; cơ chế xử lý các hành vi cản trở, xâm phạm đến quyền hành nghề của luật sư; ý kiến tranh luận, tranh tụng của luật sư vẫn chưa thực sự được coi trọng dẫn đến không ít bản án, quyết định của Tòa án chưa thật sự dựa trên kết quả tranh tụng dân chủ tại phiên tòa dẫn đến số lượng bản án bị hủy, sửa chiếm tỷ lệ khá cao; trong quá trình tranh tụng chưa thực sự có sự bình đẳng giữa kiểm sát viên (bên công tố) và luật sư (bên biện hộ).
Thứ ba, bên cạnh chất lượng nguồn lực tư pháp không đồng đều, điểm xuất phát về trình độ, kiến thức khác nhau, kỹ năng hành nghề chưa thành thạo và chuẩn mực, vấn đề phẩm đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của các chủ thể tiến hành tố tụng (THTT) và tham gia tố tụng còn hạn chế.
4. Giải pháp nâng cao vai trò của luật sư trong xét xử vụ án hình sự
Một là, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự (TTHS), Luật Luật sư về quyền, nghĩa vụ của luật sư (người bào chữa) trong các giai đoạn xét xử VAHS như: Bổ sung mới các điều luật về trình tự và thủ tục gặp gỡ bị can, bị cáo, trách nhiệm của các cơ quan THTT trong việc bảo đảm quyền gặp gỡ của luật sư với bị can, bị cáo, quy định rõ ràng quyền được sao chụp hồ sơ, tài liệu liên quan đến vụ án ở các giai đoạn tố tụng của luật sư; quy định rõ ràng về trách nhiệm của người THTT, cơ quan THTT khi có các hành vi phạm các quy định của pháp luật đối với hoạt động của luật sư; xây dựng chế tài ràng buộc trách nhiệm của luật sư... theo các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trong đó, cần quy định luật sư phải có mặt trong lần lấy lời khai đầu tiên của người bị tạm giữ hoặc bị can bảo đảm tính khách quan, chính xác của lời khai.
Hai là, tổ chức thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP ngày 01/02/2018 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đến các cán bộ có liên quan việc thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong hoạt động hỏi cung bị can (như cán bộ kỹ thuật của lực lượng hồ sơ, điều tra viên, cán bộ thực hiện công tác tạm giữ, tạm giam...); chuẩn bị các điều kiện vật chất, kỹ thuật phục vụ ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ và thực tiễn công tác hỏi cung bị can trong hoạt động TTHS.
Ba là, bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, ghi nhận và khẳng định địa vị pháp lý của luật sư trong TTHS, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử. Để việc tranh tụng được bảo đảm trong thực thế, cần có các quy định đầy đủ, hợp lý và khả thi về địa vị tố tụng của luật sư khi tham gia bào chữa tại phiên tòa để họ có đầy đủ điều kiện, khả năng thực hiện các nội dung tranh tụng theo chức năng, nhiệm vụ; được chủ động thu thập vật chứng, được hỏi những người tham gia tố tụng, đặc biệt là người làm chứng trong giai đoạn điều tra, được yêu cầu cung cấp tài liệu, được tranh luận một cách khách quan, công bằng và bình đẳng. Bên cạnh đó, cần có quy định rõ trách nhiệm của kiểm sát viên là phải đối đáp lại những quan điểm, lý lẽ bào chữa của luật sư. Cần quy định rõ những ý kiến bào chữa của luật sư đưa ra có căn cứ mà kiểm sát viên không đối đáp thì ý kiến đó của luật sư phải được HĐXX chấp nhận làm cơ sở để HĐXX ra bản án, quyết định. Để thực sự có tranh tụng tại phiên tòa, các ý kiến, quan điểm bào chữa của luật sư cần phải được xem xét, đánh giá như các ý kiến của kiểm sát viên và chúng phải được chấp nhận khi có căn cứ. HĐXX cần xem xét đầy đủ các chứng cứ buộc tội cũng như chứng cứ gỡ tội... Có như vậy mới bảo đảm bản án, quyết định của Tòa án được ban hành một cách chính xác, khách quan, có hiệu lực và hiệu quả cao.
Bốn là, nâng cao nhận thức của cơ quan THTT, người THTT về vị trí, vai trò của luật sư trong hoạt động TTHS nói chung và trong giai đoạn xét xử VAHS nói riêng. Đối với người THTT, cơ quan THTT cần xóa bỏ tư tưởng hạ thấp vai trò của luật sư, phối hợp và tạo điều kiện để luật sư phát huy vai trò, vị thế của mình trong hoạt động xét xử VAHS. Bên cạnh đó, cần thống nhất nhận thức rằng, sự tham gia của luật sư tại phiên tòa là nhằm góp phần bảo đảm sự khách quan, công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; là một kênh giám sát xã hội hữu hiệu đối với các hoạt động của cơ quan THTT ở khía cạnh tích cực góp phần cho các hoạt động TTHS ngày một hoàn thiện, đúng pháp luật; góp phần nâng cao năng lực, trình độ của người THTT.
Năm là, hoàn thiện kỹ năng tranh tụng cho đội ngũ luật sư. Một trong những mục tiêu được đề ra trong Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 là: “Bảo đảm cơ chế để luật sư tham gia đầy đủ vào các giai đoạn tố tụng, thực hiện có hiệu quả, chất lượng nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa”[14]. Luật sư được xem là một trong những chủ thể quan trọng góp phần bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử VAHS.
Thực tế cho thấy, khi luật sư tham gia tố tụng trong VAHS thì kỹ năng tranh tụng của luật sư được thể hiện xuyên suốt các giai đoạn tố tụng. Tuy nhiên, một luật sư được đánh giá là có kỹ năng tranh tụng thì luật sư đó cần phải hội tụ được tố chất của một người làm nghề luật. Do đó, cần đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn để nâng cao trình độ và kỹ năng tranh tụng cho các luật sư để luật sư có những kỹ năng cơ bản trong quá trình tác nghiệp như: Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án, kỹ năng thu thập, xuất trình và đánh giá chứng cứ, kỹ năng tranh tụng… Luật sư phải tự rèn luyện cho mình tác phong, tư thế và kỹ năng phát ngôn tại phiên tòa. Đây là những kỹ năng cần thiết giúp thu hút sự quan tâm của chủ thể buộc tội và HĐXX, đồng thời, cũng giúp luật sư tự tin hơn giữa công đường. Bản thân người luật sư cần phải thường xuyên nghiên cứu, trau dồi, cập nhật kịp thời về kiến thực pháp lý, thực hiện nghiêm việc tham gia bồi dưỡng chuyên sâu về chuyên môn, nghiệp vụ luật sư; trao đổi kinh nghiệm, kỹ năng về hành nghề, tranh tụng, tuân thủ “văn hóa tụng đình”; đề cao đạo đức và ứng xử hành nghề và phải nhận thức đầy đủ trách nhiệm, chức năng xã hội của nghề luật sư, vị trí, vai trò của mình trong hoạt động TTHS nhằm góp phần bảo vệ công lý; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho thân chủ; giúp giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật, tránh được những vụ án oan sai.
Sáu là, cần kết hợp, lồng ghép việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hình sự với các nội dung liên quan đến chức năng, vai trò của luật sư nhằm nâng cao nhận thức xã hội về vai trò luật sư, người bào chữa hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong TTHS.
Có thể nói, luật sư đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình giải quyết VAHS. Hoạt động tranh tụng của luật sư thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Nhưng điều không thể phủ nhận rằng, khi luật sư tham gia vào các VAHS thì quyền và lợi ích hợp pháp của các bị can, bị cáo hay bị hại, đương sự đều được bảo đảm. Thông qua quá trình tranh tụng, luật sư đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, đồng thời, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân.
Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội
[1]. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã dành một mục lớn để quy định về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa (mục 5, Chương XXI - Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa).
[2]. Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
[3]. Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
[4]. Điều 13 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
[5]. Điều 3 Luật Luật sư năm 2012.
[6]. Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[7]. Khoản 4 Điều 256 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[8]. Điều 252 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[9]. Khoản 1 Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[10]. Điều 297 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[11]. Điều 302 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[12]. Điều 322 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[13]. Khoản 1 Điều 322 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[14]. Quyết định số 1072/2011/QĐ-TTg ngày 05/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020.