Thứ sáu 06/06/2025 01:31
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Kinh nghiệm của một số quốc gia về kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện

Bài viết phân tích thực trạng quy định về kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện và kinh nghiệm của một số quốc gia trong công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, từ đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện tại Việt Nam.

1. Thực trạng quy định về kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện hiện nay

Thứ nhất, theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 tại Việt Nam, các nguyên tắc lập kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện đã được bổ sung nhằm mục tiêu tối ưu hóa quy trình lập kế hoạch, giảm thiểu sự chồng chéo và thời gian thực hiện. Cụ thể, quy hoạch sử dụng đất cấp huyện cần phản ánh chi tiết nội dung sử dụng đất cấp xã (khoản 2 Điều 35). Ngoài ra, một ưu tiên đặc biệt được đặt ra là quỹ đất dành cho mục đích quốc phòng, an ninh và các mục tiêu quan trọng khác như lợi ích quốc gia, công cộng, an ninh lương thực và bảo vệ môi trường (khoản 7 Điều 35). Một yếu tố quan trọng khác là sự phù hợp giữa quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các ngành, lĩnh vực và địa phương với những quyết định đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, nhằm bảo đảm sự đồng bộ và hiệu quả trong quản lý đất đai (khoản 8 Điều 35). Tuy nhiên, thuật ngữ “sử dụng đất tiết kiệm và hiệu quả” vẫn còn khá mơ hồ do thiếu những tiêu chí rõ ràng và cụ thể để đánh giá và thực thi một cách có hiệu quả nhất.

Thứ hai, Luật Đất đai năm 2013 kế thừa những quy định tại Điều 24 Luật Đất đai năm 2003 về kỳ kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp tỉnh và kế hoạch sử dụng đất quốc phòng, an ninh. Theo đó, vẫn quy định kỳ kế hoạch trong các trường hợp này là 05 năm. Theo đó, “kế hoạch sử dụng đất cấp huyện được lập hàng năm” (khoản 2 Điều 7) thay vì 05 năm như quy định trước đây. Việc đổi mới này nhằm nâng cao và bảo đảm tính khả thi của kế hoạch sử dụng đất. Thay đổi này cùng với đổi mới về căn cứ để giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất là “kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện” sẽ khắc phục tình trạng giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất tràn lan, tránh tình trạng bỏ hoang hóa, gây lãng phí tài nguyên đất.

Thứ ba, Luật Đất đai năm 2013 quy định đầy đủ, rõ ràng căn cứ lập và nội dung kế hoạch sử dụng đất của từng cấp, trong đó có kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện. Cụ thể, căn cứ lập kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện quy định tại khoản 3 Điều 40 Luật Đất đai năm 2013, ngoài kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh và quy hoạch sử dụng đất cấp huyện còn bao gồm nhu cầu sử dụng đất trong năm kế hoạch của các ngành, lĩnh vực, của các cấp và khả năng đầu tư, huy động nguồn lực để thực hiện kế hoạch sử dụng đất. Tại khoản 4 Điều 40 Luật Đất đai năm 2013 quy định liên quan đến căn cứ thu hồi đất: “Xác định vị trí, diện tích đất phải thu hồi để thực hiện công trình, dự án sử dụng đất vào mục đích quy định tại Điều 61 và Điều 62 của Luật này trong năm kế hoạch đến từng đơn vị hành chính cấp xã”. Quy định này nhằm tạo sự bình đẳng, công bằng hơn trong sử dụng đất nói chung, trong vấn đề hưởng lợi từ kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện đem lại nói riêng.

Thứ tư, việc lấy ý kiến đóng góp của nhân dân về kế hoạch sử dụng đất cấp huyện được thực hiện thông qua hình thức tổ chức hội nghị, lấy ý kiến trực tiếp và công khai thông tin về nội dung của kế hoạch sử dụng đất trên Trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện. Cùng với đó, do có thiếu sót quy định về đối tượng được triển khai tham vấn, chủ thể lấy ý kiến và trường hợp tổ chức ý kiến tham luận xảy ra xung đột giữa các chủ thể được triển khai lấy ý kiến nên nội dung lấy ý kiến đóng góp nhân dân liên quan đến kế hoạch sử dụng đất trong Luật Đất đai năm 2013 vẫn còn chưa được thiết lập đầy đủ.

Thứ năm, Luật Đất đai năm 2013 quy định Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập Hội đồng thẩm định kế hoạch sử dụng đất cấp huyện. Cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh, cấp huyện có trách nhiệm giúp Hội đồng thẩm định trong quá trình thẩm định kế hoạch sử dụng đất cấp huyện. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra, cho đến nay, thành phần Hội đồng thẩm định gồm những ai, phương thức tiến hành phản biện ra sao, tỷ lệ tán thành bao nhiêu để kế hoạch sử dụng đất được thông qua, điều này dẫn đến sự thiếu trách nhiệm trong thẩm định, cũng như hiệu năng của kế hoạch sử dụng đất.

Thứ sáu, Điều 47 quy định, cơ quan chịu trách nhiệm chủ trì việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được thuê tư vấn và Chính phủ quy định điều kiện của tổ chức, cá nhân hoạt động tư vấn lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Tuy nhiên, nếu xét về điều kiện hoạt động của tổ chức thực hiện tư vấn lập kế hoạch sử dụng đất, có thể nhận thấy còn quy định chung chung như: (i) Có chức năng tư vấn lập quy hoạch kế hoạch; (ii) Có ít nhất 05 cá nhân có năng lực hành vi dân sự, tốt nghiệp đại học các ngành về quản lý đất đai, địa chính…; (iii) Thời gian công tác trong lĩnh vực quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cho các cá nhân vừa kể trên từ 24 tháng.

Thứ bảy, Ủy ban nhân dân dân cấp tỉnh, cấp huyện có trách nhiệm thực hiện kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện tại Điều 49 Luật Đất đai năm 2013. Ngoài ra, Luật Đất đai năm 2013 đã làm rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất trong các khu vực có quy hoạch được phê duyệt, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Khi quy hoạch sử dụng đất đã được công bố nhưng chưa có kế hoạch sử dụng đất hàng năm, người sử dụng đất vẫn được quyền tiếp tục sử dụng đất và thực hiện các quyền theo luật định. Tuy nhiên, khi đã có kế hoạch sử dụng đất hàng năm, họ cần thực hiện theo kế hoạch này, bao gồm việc chuyển đổi mục đích sử dụng hoặc thu hồi đất nếu cần nhưng sẽ không được phép xây mới hoặc trồng mới. Luật Đất đai năm 2013 đưa ra các quy định mới để giải quyết vấn đề phát sinh khi kết thúc kỳ quy hoạch sử dụng đất mà quy hoạch mới chưa được phê duyệt. Theo quy định tại khoản 3 Điều 49 Luật Đất đai năm 2013, nếu sau 03 năm kể từ khi công bố kế hoạch sử dụng đất hàng năm mà vẫn chưa có quyết định thu hồi đất hoặc chưa được phép chuyển mục đích sử dụng đất cho dự án thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần điều chỉnh hoặc hủy bỏ các quyết định liên quan và công bố rộng rãi về việc này.

2. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

2.1. Về cấp quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

Ở Hàn Quốc, việc lập quy hoạch sử dụng đất thực hiện theo các cấp: Quốc gia, cấp tỉnh, vùng thủ đô; cấp huyện, vùng đô thị cơ bản. Theo đó, quy hoạch sử dụng đất được thực hiện từ tổng thể tới chi tiết. Quy hoạch cấp tỉnh, vùng thủ đô phải căn cứ trên cơ sở quy hoạch cấp quốc gia; quy hoạch cấp huyện, vùng đô thị phải căn cứ vào quy hoạch cấp tỉnh.

Ở Canada, mô hình quy hoạch sử dụng đất phản ánh tính tự trị của các tỉnh trong quản lý đất đai và tài nguyên, với chính quyền địa phương đóng vai trò chủ chốt trong việc lập quy hoạch và phát triển. Tại mỗi bang, chính quyền địa phương lập quy hoạch theo 02 cấp: Kế hoạch phát triển (như quy hoạch tổng thể) và quy hoạch vùng. Chính quyền cấp tỉnh xây dựng khuôn khổ pháp lý cho việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quyết định trực tiếp một số vấn đề quan trọng liên quan đến đất đai (như bảo vệ đất nông nghiệp); hoạch định chính sách, giám sát và kiểm soát trực tiếp việc phân chia đất đai.

Ở Trung Quốc áp dụng một hệ thống quy hoạch đất đai phân cấp rõ ràng với năm cấp độ, từ quốc gia đến địa phương, phản ánh trách nhiệm và nội dung quy hoạch ở mỗi cấp một cách chặt chẽ và cụ thể. Cấp quốc gia tập trung vào quy hoạch tổng thể chính sách, trong khi cấp tỉnh điều chỉnh quy hoạch dựa trên đặc điểm kinh tế và chính trị - xã hội riêng của tỉnh. Cấp thành phố, hạt và khu tự trị thực hiện quy hoạch trung gian, kết hợp chính sách tổng thể và cụ thể về sử dụng đất. Cấp huyện, thị xã và thành phố chi tiết hóa quy hoạch với cả nội dung tổng thể và chi tiết. Cấp hương, trấn, quy hoạch được lập chi tiết đến từng lô đất, hướng đến việc phục vụ giao dịch bất động sản. Hệ thống này còn bao gồm quy hoạch chuyên ngành, cho phép tiếp cận một cách toàn diện và chi tiết trong quản lý và sử dụng đất đai.

2.2. Về nguyên tắc, căn cứ lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

Ở Trung Quốc, việc lập quy hoạch sử dụng đất phải bảo đảm tuân thủ triệt để nhiều nguyên tắc, như: Sử dụng đất phải tiết kiệm, đem lại hiệu quả sử dụng cao nhất; bảo đảm sự cân bằng giữa nhu cầu và lợi ích sử dụng đất của các ngành kinh tế, xã hội và các địa phương; tăng cường bảo vệ môi trường, phát triển sinh thái tự nhiên nhằm duy trì và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân của cả nước… Hàng năm, căn cứ vào quy hoạch sử dụng đất được duyệt, Chính phủ giao chỉ tiêu chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang mục đích khác cho từng tỉnh. Trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phân bổ cụ thể cho từng đơn vị hành chính cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp huyện phân bổ kế hoạch sử dụng đất đến từng đơn vị xã để thực hiện. Việc chuyển mục đích sử dụng đất canh tác sang sử dụng vào các mục đích khác phi nông nghiệp phải được phê duyệt tại cấp tỉnh và Chính phủ.

Ở Hà Lan, việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải trên cơ sở kết quả khảo sát đánh giá các tham số ở các địa phương: Tham số kỹ thuật (chất lượng đất, đặc điểm địa hình, hiện trạng sử dụng, các khả năng cải thiện với bên ngoài...); tham số kinh tế (tiềm năng phát triển kinh tế); tham số văn hóa - xã hội (công trình văn hóa, nghệ thuật, bảo tồn các truyền thống văn hóa...); các giá trị và tiêu chuẩn xã hội; tham số môi trường (mức độ ô nhiễm nước và đất, không khí). Việc đưa ra quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên cơ sở kết quả khảo sát các tham số này sẽ giúp chính quyền có được cái nhìn tổng quát và chi tiết nhất về đặc điểm của từng vùng, lãnh thổ; từ đó đưa ra bản quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phù hợp, hiệu quả và có tính bền vững.

2.3. Về thẩm quyền lập, quyết định, xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

Ở Hàn Quốc, quy hoạch cấp quốc gia do Bộ trưởng Bộ Đất đai, Giao thông và Hàng hải phê duyệt, quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh do tỉnh phê duyệt, quy hoạch đất cấp huyện hoặc quy hoạch đô thị cơ bản do Tỉnh trưởng phê duyệt. Quốc hội không can thiệp vào quá trình xét duyệt quy hoạch sử dụng đất.

Ở Trung Quốc, Bộ Đất đai và Tài nguyên quốc gia và Cơ quan quản lý đất đai thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đều có trách nhiệm chung là tổ chức lập và thực hiện quy hoạch đất quốc gia, quy hoạch tổng thể sử dụng đất; tham gia vào việc thẩm tra quy hoạch tổng thể đô thị trình Quốc vụ viện phê chuẩn. Nhìn chung, Bộ Đất đai và Tài nguyên quốc gia chỉ đạo và thẩm tra quy hoạch tổng thể sử dụng đất của địa phương; còn Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt, chỉ đạo và thẩm định quy hoạch tổng thể sử dụng đất của thành phố (thuộc tỉnh), huyện. Cơ quan quản lý đất đai thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện căn cứ vào quy hoạch tổng thể sử dụng đất của cấp trên, tổ chức lập và thực hiện quy hoạch tổng thể sử dụng đất và các quy hoạch chuyên ngành có liên quan cấp huyện. Phòng tài nguyên đất đai cấp xã lập và thực hiện quy hoạch tổng thể sử dụng đất cấp xã, hợp tác và hỗ trợ làm tốt công tác lấy ý kiến quần chúng đối với quy hoạch.

Chính phủ phê duyệt quy hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các thành phố thuộc tỉnh nhưng có trên 01 triệu dân (như Nam Ninh, Quảng Châu), các đặc khu kinh tế (như Thâm Quyến, Chu Hải). Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt quy hoạch sử dụng đất của các đơn vị hành chính cấp huyện và quy hoạch sử dụng đất của cấp xã.

Ở Hà Lan, quy trình quy hoạch sử dụng đất được tổ chức một cách có hệ thống từ cấp quốc gia đến địa phương, với sự tham gia của nhiều cơ quan chuyên môn và tư vấn. Quyền quyết định cuối cùng ở cấp quốc gia thuộc về Nghị viện và Chính phủ, hỗ trợ bởi Ủy ban Quy hoạch không gian Nhà nước, Cơ quan quy hoạch không gian nhà nước và Hội đồng tư vấn quy hoạch không gian. Ở cấp tỉnh, Hội đồng tỉnh và Ban Chấp hành Hội đồng tỉnh nhận sự hỗ trợ từ Ủy ban Quy hoạch không gian tỉnh và Cơ quan quy hoạch không gian tỉnh, đảm bảo quy hoạch phù hợp với nhu cầu và đặc thù của từng tỉnh. Đối với cấp địa phương, sự hỗ trợ đến từ Phòng Quy hoạch cấp huyện, Hội đồng huyện và Ban Chấp hành Hội đồng huyện, tuy nhiên chỉ các huyện lớn mới trực tiếp thiết lập Phòng Quy hoạch cấp huyện; các huyện nhỏ hơn có thể thuê chuyên gia tư vấn tư nhân để thực hiện nhiệm vụ quy hoạch. Huyện sử dụng hai loại sơ đồ quy hoạch chính: Sơ đồ bố trí tổ chức và Sơ đồ quy hoạch sử dụng đất. Sau khi được Hội đồng huyện thông qua, các sơ đồ sẽ được báo cáo lên Ban Chấp hành Hội đồng tỉnh và Cơ quan quy hoạch không gian nhà nước.

2.3.1. Về kỳ quy hoạch

Hàn Quốc thiết lập kỳ quy hoạch 20 năm đối với cấp quốc gia và tỉnh, 10 năm đối với quy hoạch sử dụng đất vùng đô thị cơ bản và kế hoạch sử dụng đất, với việc rà soát và điều chỉnh sau 05 năm để bảo đảm phù hợp với yêu cầu phát triển và thị trường. Trong khi đó, Trung Quốc áp dụng một kỳ quy hoạch 10 năm theo quy định của Luật Đất đai năm 1999. Canada trước đây áp dụng kỳ quy hoạch 05 năm nhưng đã thay đổi do thực tiễn cho thấy khoảng thời gian này không hợp lý, hiện tại không còn quy định cụ thể về kỳ quy hoạch, cho phép một mức độ linh hoạt cao trong quy hoạch sử dụng đất với việc tuân theo các thủ tục phê duyệt theo luật định.

2.3.2. Về quá trình lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

Ở Hàn Quốc, việc lấy ý kiến nhân dân trong quá trình lập quy hoạch sử dụng đất không chỉ bảo đảm tính minh bạch và dân chủ mà còn giúp quy hoạch phản ánh chính xác nhu cầu và mong muốn của người dân. Sự công khai, phổ biến quy hoạch sau khi được phê duyệt cũng là bước quan trọng giúp nhân dân hiểu rõ và theo dõi được quá trình thực hiện quy hoạch. Chính quyền ở các cấp cũng chú trọng tiếp thu và giải trình các ý kiến đóng góp từ cộng đồng để hoàn thiện và thực hiện quy hoạch một cách hiệu quả. Hàn Quốc cũng đưa ra chính sách nhằm bảo đảm tính khả thi như miễn thuế hay hỗ trợ đời sống cho những khu vực cần được bảo tồn hoặc bảo vệ.

Ở Canada, công tác quy hoạch sử dụng đất được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật của cơ quan lập pháp của tỉnh (bang), với một đạo luật đặc biệt cho thành phố thủ đô và một luật quy hoạch cho 200 thành phố còn lại. Theo Luật Quy hoạch chính quyền tỉnh, mỗi thành phố lập kế hoạch phát triển và bản quy hoạch vùng (bao gồm kế hoạch chi tiết, các quy định về sử dụng đất và các tiêu chuẩn phát triển). Kế hoạch phát triển phải tuân thủ các quy định, chính sách của tỉnh. Nếu họ không đồng ý với một kế hoạch phát triển được đề xuất, họ có thể khiếu nại đến một hội đồng đặc biệt và thường kế hoạch sẽ không được phê duyệt nếu có phản đối này.

2.3.3. Kinh nghiệm cho Việt Nam

Tất cả các nước đều xác định tầm quan trọng của việc quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Đồng thời, việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được lập theo nguyên tắc từ tổng thể đến chi tiết (từ vĩ mô đến vi mô). Trong đó, kế hoạch sử dụng đất cấp vĩ mô (toàn quốc và các vùng lãnh thổ) có vai trò định hướng cho các kế hoạch sử dụng đất cấp vi mô (tỉnh, huyện, xã). Ngoài kế hoạch cấp vùng lãnh thổ là cấp trung gian giữa kế hoạch toàn quốc và kế hoạch các cấp địa phương, có vị trí quan trọng và là yếu tố cấu thành của kế hoạch sử dụng đất toàn quốc, là căn cứ ảnh hưởng của kế hoạch đất đai các cấp hành chính. Về hệ thống các văn bản pháp luật phải được ban hành đồng bộ, kịp thời, mang tính chất ổn định, đồng thời các quy định pháp luật đủ có điều chỉnh nhưng vẫn phải bảo đảm tính kế thừa xã hội càng phát triển tính cạnh tranh càng gay gắt, để bảo đảm thế mạnh trong cạnh tranh, công tác quản lý của Nhà nước phải mạnh và có hiệu lực cao. Tuy nhiên, tăng cường quyền lực của Nhà nước không có nghĩa là hạn chế quyền của các chủ thể sử dụng đất. Quyền lực nhà nước phải mạnh để bảo đảm cho mọi chủ thể được hoạt động đúng khuôn khổ pháp luật quy định và mọi chủ thể đều được tự do phát triển. Với các nước có công tác quản lý đất đai tốt, có hiệu quả sử dụng đất cao, hầu như các vi phạm pháp luật trong quản lý sử dụng đất đều bị xử lý rất nghiêm khắc và rất triệt để.

3. Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện

Thứ nhất, về căn cứ lập kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện.

Căn cứ lập kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện vẫn dựa trên quy hoạch tỉnh và quy hoạch sử dụng đất cấp huyện, nhưng bổ sung căn cứ vào “hiện trạng và kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất năm trước của huyện”. Hơn nữa, việc thay đổi cụm từ “nhu cầu sử dụng đất trong năm kế hoạch của các ngành, lĩnh vực, của các cấp” thành “nhu cầu sử dụng đất theo đề nghị của các tổ chức, cá nhân” làm cho quy hoạch sử dụng đất gần gũi và phản ánh chính xác hơn nhu cầu sử dụng đất của các đối tượng cụ thể.

Thứ hai, về nội dung kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện.

Cải cách mới trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện tập trung vào việc tăng cường minh bạch và tính cụ thể trong quản lý đất đai, với ba điểm chính được nhấn mạnh. Đầu tiên, kế hoạch cần phải rõ ràng về các khu chức năng cần được bảo vệ nghiêm ngặt, bao gồm các vùng đất chuyên trồng lúa, vùng đất rừng phòng hộ và khu bảo tồn, nhằm bảo đảm sự bảo vệ và phát triển bền vững. Thứ hai, quyết định về vị trí và phương thức sử dụng đất cho mỗi dự án, công trình được đưa ra dựa trên kế hoạch sử dụng đất đã phê duyệt, làm nền tảng cho việc lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch xây dựng chi tiết, theo dõi chặt chẽ để tránh lạm quyền trong quyết định sử dụng đất. Cuối cùng, việc bổ sung bản đồ ranh giới và vị trí các khu vực dự án trong bản đồ kế hoạch sử dụng đất hàng năm giúp tăng cường sự hiểu biết và theo dõi của người dân về kế hoạch sử dụng đất thông qua thông tin được công bố công khai, làm cho quá trình quản lý đất đai trở nên minh bạch và dễ dàng giám sát hơn.

Thứ ba, về nguyên tắc lập kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện.

Tại khoản 1 Điều 35 Luật Đất đai năm 2013 quy định, một trong các nguyên tắc khi lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch tổng thể, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, theo Luật Quy hoạch năm 2017, đến nay, các loại quy hoạch này không còn trong hệ thống quy hoạch, thay vào đó là quy hoạch tổng thể quốc gia. Theo đó, cần xem xét bỏ nguyên tắc này trong công tác lập quy hoạch, kế hoạch nói chung và lập kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện nói riêng để bảo đảm phù hợp với quy định mới của Luật Quy hoạch năm 2017.

Thứ tư, về việc lấy ý kiến trong quá trình thẩm định, phê duyệt kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện.

Để tăng cường tính chủ động và minh bạch trong quy hoạch sử dụng đất, Điều 43 Luật Đất đai năm 2013 Việt Nam cần được rà soát và đổi mới. Đề xuất bổ sung một khoản quy định rõ ràng về trách nhiệm của các cơ quan lập quy hoạch trong việc công bố công khai kế hoạch tổ chức lấy ý kiến nhân dân, cho phép người dân chủ động tham gia từ giai đoạn đầu của quá trình lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch. Mục tiêu là bảo đảm người dân không chỉ được lắng nghe mà còn có cơ hội đóng góp ý kiến, từ đó nâng cao tính công bằng và minh bạch trong quản lý và sử dụng đất đai.

Thứ năm, về việc công bố công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (trong đó có kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện tại Điều 48 Luật Đất đai năm 2013).

Để phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 38 Luật Quy hoạch năm 2017 về thời gian công bố công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đề nghị sửa điểm a khoản 3 Điều 48 Luật Đất đai năm 2013 như sau: “Việc công bố công khai được thực hiện trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, phê duyệt”.

Thứ sáu, về việc điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện.

Theo tác giả, nên quy định rõ hai cấp độ điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất để tránh trường hợp thực hiện điều chỉnh theo đúng quy trình cũ sẽ mất cơ hội đầu tư của nhiều dự án, làm chậm sự phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể là: Trường hợp chỉ thay đổi về quy mô, số lượng và địa điểm dự án, công trình trong cùng một loại đất hoặc thay đổi chỉ tiêu sử dụng đất do cấp đó được phép xác định theo thẩm quyền nhưng không làm thay đổi về khu vực và chỉ tiêu sử dụng đất theo chức năng sử dụng thì chỉ điều chỉnh cục bộ quy hoạch sử dụng đất. Trình tự, thủ tục điều chỉnh cục bộ quy hoạch sử dụng đất được quy định rút gọn, đơn giản. Các trường hợp còn lại điều chỉnh theo đúng quy trình theo quy định tại khoản 1 Điều 46 Luật Đất đai năm 2013./.

ThS. Trương Đình Lộc

Đại học Tài nguyên và Môi trường

Ảnh: internet

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 402), tháng 4/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Hiện nay, các tội phạm sử dụng công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội diễn ra ngày càng phổ biến. Một trong những công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội, nguy hiểm, gây ra thiệt hại lớn cho xã hội được các tội phạm sử dụng nhiều nhất, chính là sử dụng mã độc tống tiền (Ransomware). Vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật để kịp thời phòng, chống những tác hại của Ransomware là thực sự cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Bài viết nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật của Hoa Kỳ và Trung Quốc, từ đó, kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Pháp luật về hòa giải thương mại của Việt Nam và Ấn Độ - Góc nhìn so sánh và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Việt Nam và Ấn Độ đều có khung pháp lý điều chỉnh hoạt động hòa giải thương mại, nhưng có sự khác biệt đáng kể về cơ chế vận hành và thực thi. Bài viết sử dụng phương pháp so sánh luật học để phân tích và đối chiếu quy định pháp luật giữa hai quốc gia, đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp luật về hòa giải thương mại tại Việt Nam.

Vai trò của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp và giá trị tham khảo cho Việt Nam

Nội các Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong quá trình lập pháp với quyền đề xuất hầu hết các dự thảo luật trình lên Quốc hội. Bài viết nghiên cứu, phân tích vị trí, vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp, từ sáng kiến đến soạn thảo, đánh giá và thông qua luật. Đồng thời, so sánh với quy trình lập pháp tại Việt Nam, chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt quan trọng. Từ đó, đề xuất các giá trị mà Việt Nam có thể tham khảo nhằm nâng cao vị trí và vai trò của Chính phủ trong quá trình xây dựng pháp luật.

Hình phạt tiền - Dưới góc nhìn so sánh pháp luật hình sự Việt Nam với Liên bang Úc và kinh nghiệm cho Việt Nam

Hình phạt tiền ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong hệ thống hình phạt của nhiều quốc gia, kể cả Việt Nam và Liên bang Úc, như một biện pháp hiệu quả để xử lý các hành vi phạm tội, đặc biệt là các tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm do pháp nhân thực hiện. Bài viết phân tích quy định pháp luật hình sự về hình phạt tiền của Việt Nam và Liên bang Úc, làm rõ sự khác biệt về đối tượng pháp nhân chịu trách nhiệm, phương pháp xác định mức phạt, các yếu tố Tòa án cân nhắc và cơ chế thi hành; từ đó, rút ra một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo đối với Việt Nam.

Kết đôi dân sự theo pháp luật của Pháp và gợi mở quy chế pháp lý cho cặp đôi không muốn kết hôn tại Việt Nam

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã ghi nhận và thiết lập quy định liên quan đến vấn đề chung sống như vợ chồng, bởi đây là hiện tượng khách quan và phổ biến trong xã hội. Bộ luật Dân sự Pháp đã thiết kế chế định kết đôi dân sự để điều chỉnh mối quan hệ giữa các cặp đôi chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn. Bài viết phân tích chế định kết đôi dân sự ở Pháp, thực trạng chung sống như vợ chồng ở Việt Nam và gợi mở về một số thay đổi của chính sách, pháp luật hôn nhân và gia đình tại Việt Nam.
Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh là một cơ chế pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của cổ đông và công ty. Hình thức kiện này đã hình thành từ rất lâu tại Anh và được xây dựng dựa trên nền tảng thông luật. Ở Việt Nam, kiện phái sinh mới chỉ được ghi nhận thông qua các quy định pháp luật trong thời gian gần đây. Bài viết phân tích các quy định pháp lý về hình thức kiện phái sinh tại Vương quốc Anh, đánh giá những ưu điểm, hạn chế của cơ chế này, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện cơ chế kiện phái sinh, phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam.

Xây dựng mô hình Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ tại Việt Nam - Kinh nghiệm từ Nhật Bản và Vương quốc Anh

Bài viết so sánh mô hình Tòa Thượng thẩm sở hữu trí tuệ chuyên sâu Nhật Bản và hệ thống Tòa án sở hữu trí tuệ xét xử linh hoạt ở Anh, từ đó, rút ra khuyến nghị cho Việt Nam, đề xuất thành lập Tòa án chuyên biệt về sở hữu trí tuệ tại các trung tâm kinh tế lớn, kết hợp mô hình xét xử phù hợp để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả.

Thuế carbon và cơ chế điều chỉnh biên giới carbon - Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý khung pháp lý cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada trong thiết kế và thực thi chính sách định giá carbon, đồng thời, chỉ ra những khoảng trống của pháp luật Việt Nam, đặc biệt, về Hệ thống đo lường, giám sát phát thải và Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon. Trên cơ sở đó, đề xuất lộ trình xây dựng luật thuế carbon, tích hợp Hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định, Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon nội địa và quy trình quản lý thuế minh bạch, giúp Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, bảo vệ doanh nghiệp và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ - Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu về trí tuệ nhân tạo (AI), sự cần thiết ứng dụng AI trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) nhìn từ kinh nghiệm của một số quốc gia, khu vực dẫn đầu trong việc ứng dụng AI vào bảo hộ quyền SHTT như Hoa Kỳ, châu Âu, Trung Quốc… từ đó, nghiên cứu đưa ra một số gợi mở cho việc ứng dụng AI trong việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến việc ứng dụng AI vào hoạt động bảo hộ quyền SHTT.

Chuẩn hợp đồng (Quasi contract) - Cơ sở pháp lý và đề xuất áp dụng tại Việt Nam

Bài viết phân tích khái niệm chuẩn hợp đồng (Quasi contract) trong hệ thống pháp luật Common Law và sự tương đồng với một số quy định trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, đồng thời đề xuất việc nghiên cứu lựa chọn có chọn lọc và áp dụng Quasi contract vào hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp và bảo vệ quyền lợi các bên.

Bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo - Nhìn từ thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết phân tích chính sách bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư liên quan đến trí tuệ nhân tạo (AI) ở một số quốc gia trên thế giới, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam về vấn đề này.

Cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba tại Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho Việt Nam

Bài viết phân tích cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba (cơ chế Safe Harbor) trong luật pháp Hoa Kỳ và Việt Nam, từ đó, đưa ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật liên quan đến các trường hợp miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet.

Xây dựng luật thuế các-bon - Kinh nghiệm Singapore và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Thuế các-bon là một công cụ tài chính quan trọng nhằm giảm phát thải khí nhà kính bằng cách định giá lượng khí CO₂ thải ra môi trường. Việc áp dụng thuế này không chỉ giúp kiểm soát ô nhiễm mà còn tạo nguồn thu để đầu tư vào các giải pháp phát triển bền vững. Trong bối cảnh đã có nhiều quốc gia xây dựng, ban hành và áp dụng thuế các-bon, Việt Nam cần cân nhắc xây dựng khung pháp lý phù hợp cho việc áp dụng thuế các-bon trong nước. Singapore là một trong những quốc gia đi đầu ở Đông Nam Á trong xây dựng, áp dụng pháp luật về thuế các-bon với nhiều điểm nổi bật mà Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc, phù hợp với thực tế của Việt nam. Xuất phát từ đó, bài viết làm rõ một số kinh nghiệm nổi bật của Singapore về xây dựng Luật thuế các-bon, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích quy định về xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 ngày 23/10/2024 của Nghị viện và Hội đồng châu Âu về việc cải thiện điều kiện làm việc đối với công việc nền tảng (Chỉ thị (EU) 2024/2831) và thực trạng xác định tình trạng lao động tại Việt Nam hiện nay, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Miễn trừ thông báo tập trung kinh tế - Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tập trung kinh tế là quá trình giảm số lượng doanh nghiệp độc lập trên thị trường thông qua sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh nhằm mở rộng quy mô và nâng cao khả năng cạnh tranh. Hành vi này giúp tối ưu nguồn lực nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ hạn chế cạnh tranh, dẫn đến độc quyền, ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường và người tiêu dùng. Pháp luật cạnh tranh của Mỹ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản kiểm soát tập trung kinh tế qua quy định về thông báo giao dịch và các trường hợp miễn trừ thông báo đối với hành vi tập trung kinh tế ít tác động đến thị trường. Từ kinh nghiệm của những quốc gia này về các trường hợp được miễn thông báo tập trung kinh tế, nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm