Thứ bảy 31/05/2025 11:40
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Chính thể cộng hòa hỗn hợp: Góc nhìn so sánh từ Hiến pháp Cộng hòa Pháp năm 1958 và Hiến pháp Việt Nam năm 1946

Bài viết phân tích khái quát về nguyên nhân ra đời và một số đặc điểm của hình thức chính thể cộng hòa hỗn hợp bằng cách tham chiếu đến những quy định trong Hiến pháp Cộng hòa Pháp năm 1958 và Hiến pháp Việt Nam năm 1946. Từ đó, tác giả đi đến nhận định: Thực tiễn chính trị đôi khi sẽ khác (thậm chí đi ngược lại) với những dự định ban đầu, mong muốn xây dựng một hình thức chính thể cộng hòa hỗn hợp tối ưu.

1. Khái quát về nguyên nhân ra đời của hình thức chính thể cộng hòa hỗn hợp

Theo các nhà khoa học, “Chính thể cộng hòa lưỡng tính là chính thể mà ở đó việc tổ chức nhà nước vừa có đặc điểm của cộng hòa đại nghị, vừa có những đặc điểm của cộng hòa tổng thống”[1]. Lịch sử cho thấy có ba chiều hướng chính hình thành chính thể cộng hòa hỗn hợp:

Một là, chính thể cộng hòa hỗn hợp được xây dựng để khắc phục những khuyết điểm đã và đang tồn tại ở chính thể cộng hòa đại nghị và cộng hòa tổng thống. Cụ thể, khuyết điểm rõ rệt nhất ở chính thể cộng hòa đại nghị là Chính phủ rất dễ sụp đổ nếu trong Nghị viện có nhiều đảng phái chính trị mà không có đảng phái chính trị nào chiếm đa số[2], thiếu sự phân chia giữa nhánh lập pháp và hành pháp (các Chính phủ đại nghị thường dẫn đến sự hợp tác)[3]. Còn ở chính thể cộng hòa tổng thống thì rất dễ dẫn đến sự chuyên quyền, độc đoán của cá nhân Tổng thống[4]. Do đó, chính thể cộng hòa hỗn hợp được xây dựng sau một cuộc cách mạng xã hội và được các quốc gia Đông Âu tin tưởng vì khi xây dựng mô hình mới giữa hai mô hình truyền thống vừa tạo được sự ổn định xã hội, vừa đẩy mạnh công cuộc cải cách[5].

Hai là, chuyển đổi từ chính thể cộng hòa đại nghị sang chính thể cộng hòa hỗn hợp. Tiêu biểu cho chiều hướng này là nước Pháp. Nước Pháp muốn thoát khỏi tình trạng bất ổn chính trị khi các Chính phủ nhanh chóng sụp đổ trong nền Cộng hòa Đệ Tứ và Hiến pháp Cộng hòa Đệ Ngũ 1958 ra đời như một “sự dàn xếp” trong giới chính trị nhằm thay đổi nước Pháp[6]. “Bản Hiến pháp tương lai sẽ phải đảm bảo sự cân bằng về quyền lực, theo đề nghị của De Gaulle (nghĩa là chấm dứt quyền lực tối cao của Nghị viện[7]), nhưng giữ chế độ đại nghị như đòi hỏi của các lãnh đạo các đảng phái của nền Cộng hòa Đệ Tứ (tức là Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội)”[8].

Ba là, chuyển đổi từ chính thể cộng hòa tổng thống sang chính thể cộng hòa hỗn hợp. Điển hình cho chiều hướng này là các quốc gia ở châu Phi, sau một thời gian áp dụng chính thể tổng thống và xuất hiện ồ ạt nạn độc tài, đảo chính và bất ổn chính trị thì vào khoảng cuối những năm 1980, đầu những năm 1990, đa số các quốc gia châu Phi còn duy trì chính thể cộng hòa tổng thống sẽ chuyển sang chính thể cộng hòa hỗn hợp[9].

Như vậy, sự xuất hiện của chính thể cộng hòa hỗn hợp là sự “cùng chung sống” giữa các yếu tố đại nghị và các yếu tố tổng thống (phạm vi kết hợp sẽ được điều chỉnh tùy vào mỗi quốc gia) nhằm phát huy lợi thế và hạn chế những nhược điểm của hai chính thể cộng hòa “gốc”. Vì vậy, có thể gọi chính thể cộng hòa hỗn hợp là chính thể “Tổng thống được tăng cường” hay chính thể “Nghị viện được hợp lý hóa”[10].

2. Một số đặc điểm của hình thức chính thể cộng hòa hỗn hợp thông qua Hiến pháp Cộng hòa Pháp năm 1958 và Hiến pháp Việt Nam năm 1946

Có rất nhiều đặc điểm để nhận diện hình thức chính thể cộng hòa hỗn hợp, chủ yếu xoay quanh sự kết hợp của tính tổng thống và tính đại nghị. Trong phạm vi giới hạn, tác giả tập trung làm sáng tỏ các đặc điểm của hình thức chính thể cộng hòa hỗn hợp dựa trên cách thành lập; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ chế chịu trách nhiệm của nguyên thủ quốc gia, Nghị viện và Chính phủ.

2.1. Cách thành lập nguyên thủ quốc gia, Nghị viện và Chính phủ

Thứ nhất, nguyên thủ quốc gia:

Tổng thống tại Pháp do toàn dân bầu ra thông qua phổ thông đầu phiếu trực tiếp[11] với nhiệm kỳ 05 năm (trước năm 2002, nhiệm kỳ của Tổng thống là 07 năm[12]). Mọi công dân Pháp đang thừa hưởng quyền dân sự và chính trị, từ 23 tuổi trở lên, đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự và được ít nhất 500 chữ ký ủng hộ của các vị dân biểu đều có thể ra ứng cử. Hội đồng Hiến pháp xem xét các điều kiện và lập ra danh sách ứng cử viên. Việc bầu cử được tiến hành theo hai vòng, ứng cử viên nào đạt đa số phiếu bầu sẽ trúng cử[13].

Trong khi đó, theo Hiến pháp Việt Nam năm 1946, nguyên thủ quốc gia có tên gọi là Chủ tịch nước, là nguyên thủ cá nhân do nghị viện bầu ra trong nghị viện nhân dân, có nhiệm kỳ 05 năm, theo chế độ . Ứng cử viên trúng cử phải được ít nhất hai phần ba tổng số nghị viên bỏ phiếu thuận. Nếu vòng 1 không có ứng cử viên nào đạt đủ tỷ lệ này thì vòng 2 sẽ được tiến hành theo nguyên tắc đa số tương đối (Điều thứ 45 Hiến pháp năm 1946).

Như vậy, cộng hòa hỗn hợp là chính thể mà ở đó, nguyên thủ quốc gia do dân trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu (mang dấu ấn của cộng hòa tổng thống) nhưng tại Việt Nam,

Thứ hai, Nghị viện:

Nghị viện Pháp gồm có 02 viện: Hạ nghị viện (Quốc hội - Thượng nghị viện (Sénat): “Điều 24 Hiến pháp Cộng hòa Pháp năm 1958). Hạ nghị viện (Nghị sĩ Hạ viện Pháp được gọi là đại biểu Quốc hội Pháp) được thành lập theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu trực tiếp toàn quốc, có nhiệm kỳ 05 năm và được tiến hành theo 02 vòng bầu cử (mỗi khu vực bầu cử được chia thành nhiều quận huyện với số dân trung bình khoảng 105.600 cử tri, mỗi đại biểu có thể giới thiệu người thay thế mình trong trường hợp có thể trở thành Bộ trưởng Chính phủ). Tại vòng 1, các ứng cử viên phải đạt được ít nhất 12,5% số phiếu bầu trên tổng số danh sách cử tri thì mới được quyền tham dự ở vòng 2. Tại vòng 2, ứng cử viên trúng cử được xác định theo nguyên tắc đa số tương đối[14]. Bên cạnh đó, Thượng nghị viện (Nghị sĩ Thượng viện còn được gọi là Thượng nghị sĩ Pháp) được thành lập thông qua bầu cử gián tiếp (Thượng nghị sĩ do các đại cử tri bầu, bao gồm các thành viên Hội đồng vùng, tỉnh, Đại biểu Quốc hội), nhiệm kỳ 06 năm, sau mỗi 03 năm thì bầu lại một phần hai số Thượng nghị sĩ và cũng có 02 vòng, vòng đầu xác định theo nguyên tắc đa số tuyệt đối, vòng 2 theo nguyên tắc đa số tương đối[15].

Tại Việt Nam, Hiến pháp năm 1946 quy định chỉ có một viện duy nhất đó là Nghị viện nhân dân do công dân từ 18 tuổi trở lên bầu ra, có nhiệm kỳ 03 năm[16], theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Bỏ phiếu phải tự do, trực tiếp và kín[17]. Theo đó, cứ 5 vạn dân thì có một nghị viên và số nghị viên của những đô thị lớn và những địa phương có quốc dân thiểu số sẽ do luật định (Điều thứ 24).

Như vậy, điểm chung của các quốc gia theo chính thể cộng hòa hỗn hợp là bầu cử theo nhiệm kỳ đối với các cơ quan nhà nước tối cao trong lĩnh vực lập pháp. Trong đó, những quy định cụ thể về vấn đề bầu cử cũng như số lượng nhiệm kỳ, giới hạn thời gian của mỗi nhiệm kỳ… thì lại tùy thuộc vào pháp luật của mỗi quốc gia khác nhau (do ảnh hưởng của điều kiện chính trị, văn hóa, lịch sử, truyền thống…)[18].

Thứ ba, Chính phủ:

Chính phủ tại Pháp là cơ quan tập thể có hai người đứng đầu (chính quyền hành pháp lưỡng đầu chế[19]) gồm có Tổng thống chủ tọa Hội đồng Bộ trưởng và Thủ tướng chủ tọa Nội các (Hiến pháp Cộng hòa Pháp năm 1958 phân biệt 02 loại cơ quan hành pháp ở trung ương là Hội đồng Bộ trưởng và Nội các, với tính chất “hai đầu”, khái niệm chính quyền hành pháp trung ương rộng hơn khái niệm Chính phủ). Tổng thống bổ nhiệm Thủ tướng và theo đề nghị của Thủ tướng, Tổng thống bổ nhiệm các thành viên khác của Chính phủ (Điều 8 Hiến pháp Cộng hòa Pháp năm 1958). Tuy nhiên, Tổng thống không được hoàn toàn tự do trong việc lựa chọn Thủ tướng mà căn cứ vào hệ quả từ các quy định trong Hiến pháp (các điều 20, 49, 50)[20] thì Tổng thống không thể bổ nhiệm ai khác làm Thủ tướng ngoài thủ lĩnh của Đảng chiếm đa số trong Hạ viện (nếu Hạ nghị viện không tín nhiệm Thủ tướng thì Tổng thống có 02 lựa chọn là chọn Thủ tướng mới hoặc giải tán Hạ nghị viện)[21].

Chính phủ trong Hiến pháp năm 1946 của Việt Nam cũng là một Chính phủ “lưỡng đầu” (Chính phủ liên hiệp) bao gồm nguyên thủ quốc gia (Chủ tịch nước), Phó Chủ tịch nước và Nội các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng (có thể có Phó Thủ tướng) (Điều thứ 44). Chủ tịch nước chọn Thủ tướng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết. Nếu được Nghị viện tín nhiệm, Thủ tướng chọn các Bộ trưởng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết toàn thể danh sách. Thứ trưởng có thể chọn ngoài Nghị viện và do Thủ tướng đề cử ra Hội đồng Chính phủ duyệt y (Điều thứ 47). Có thể khẳng định,

Như vậy, điểm đặc trưng của cộng hòa lưỡng tính là thành lập “Chính phủ lưỡng đầu” bao gồm cả Thủ tướng và nguyên thủ quốc gia. Trong đó, sự xuất hiện của chức danh Thủ tướng là điểm phân biệt khá rõ với chính thể cộng hòa tổng thống (trong chính thể cộng hòa tổng thống không có chức danh Thủ tướng trong Chính phủ). Việc bổ nhiệm các thành viên của Chính phủ được tiến hành trong thực tiễn hoàn toàn “sinh động” hơn quy định của Hiến pháp. Hầu hết các quốc gia đều mong muốn việc thành lập Chính phủ không cần sự “tấn phong” của Nghị viện nhưng chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác (như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ giữa các nhánh quyền lực,…) mà trên thực tế sự tác động của Nghị viện trong quá trình thành lập Chính phủ là rất lớn. Vì vậy, giữa Nghị viện và Tổng thống (Chủ tịch nước) thường thỏa hiệp với nhau để cùng tồn tại[22].

2.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của nguyên thủ quốc gia, Nghị viện và Chính phủ

Thứ nhất, nguyên thủ quốc gia:

Tổng thống theo Hiến pháp Cộng hòa Pháp năm 1958 có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Tổng thống thực hiện chức năng kép: Vừa là người đại diện cho quốc gia, vừa lãnh đạo quyền hành pháp. Thẩm quyền quan trọng nhất của Tổng thống (cũng là thẩm quyền mang màu sắc của cộng hòa đại nghị) là quyền giải tán Hạ nghị viện (sau khi tham khảo ý kiến của Thủ tướng và Chủ tịch của 02 viện theo Điều 12)[23], bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp, sáng kiến pháp luật, công bố luật, phủ quyết luật và ban hành những văn bản pháp quy về mặt hành pháp có tính chất luật và ban hành những văn bản luật ủy quyền[24]. Khi san sẻ quyền hành pháp cùng Thủ tướng, Tổng thống sẽ chủ tọa các phiên họp của Chính phủ và đề ra các chính sách quan trọng về đối nội, đối ngoại (Điều 9 và Điều 13). Vì vậy, dù không trực tiếp ghi nhận quyền hành pháp của Tổng thống nhưng Hiến pháp Cộng hòa Pháp năm 1958 đã gián tiếp thừa nhận ở rải rác các nội dung liên quan đến thẩm quyền[25] (trực tiếp lãnh đạo hành pháp là đặc điểm của cộng hòa tổng thống).

Tại Việt Nam, theo Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch nước là trung tâm của quyền lực chính trị, không chỉ là người đứng đầu Nhà nước, mà còn là người đứng đầu Chính phủ[26]. Chủ tịch nước là chủ thể đại diện chính thức của quốc gia trong các quan hệ quốc tế (, thể hiện tính biểu tượng và sự thống nhất của đất nước và khối đại đoàn kết dân tộc. Chủ tịch nước là thành viên của Nghị viện, có quyền ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị (Điều thứ 49); có quyền yêu cầu Nghị viện về sự tín nhiệm Nội các; có quyền triệu tập phiên họp bất thường; quyền phủ quyết tương đối các dự án luật[27]. Bên cạnh đó, Chủ tịch nước cũng là thành viên Chính phủ, trực tiếp điều hành Chính phủ bằng cách chủ tọa các phiên họp Chính phủ; ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng Chính phủ, nhân viên Nội các và nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ, các đại sứ; ký các sắc lệnh của Chính phủ; yêu cầu Nghị viện thảo luận lại vấn đề tín nhiệm Nội các… (các điều thứ 49, 53, 54).

Như vậy, chính thể cộng hòa hỗn hợp xây dựng nguyên thủ quốc gia trở thành nhân vật trung tâm của nền chính trị (ở nền Cộng hòa Đệ Ngũ của Pháp còn được gọi là chính thể “Tổng thống được tăng cường”), trở thành một trong những kênh bảo đảm an toàn cho hoạt động lập pháp, không mang đến những bất lợi cho xu hướng cách mạng của dân tộc, đời sống và quyền của công dân bằng cách trực tiếp lãnh đạo (có thể nắm toàn bộ hoặc một phần quan trọng của quyền hành pháp) thông qua quyền điều hành các phiên họp chính thức của Chính phủ[28].

Thứ hai, Nghị viện:

Đến Hiến pháp năm 1958 của nền Cộng hòa Đệ Ngũ, vai trò chính trị của Nghị viện đã bị đẩy lùi sau Tổng thống và Chính phủ[29]. Nghị viện chỉ được ban hành luật để điều chỉnh những lĩnh vực trong phạm vi hữu hạn cho phép tại Điều 34 của Hiến pháp. Nghị viện không thể ban hành luật ngoài phạm vi mà Hiến pháp quy định và các dự án luật do các nghị sĩ đề xuất cũng ngày càng ít đi. Ngược lại, từ phía Chính phủ đề xuất lại tăng lên[30]. Theo Điều 38 Hiến pháp Cộng hòa Pháp năm 1958, Nghị viện có thể ủy quyền lập pháp cho Chính phủ đối với một số vấn đề nhất định. Hiến pháp này không ghi nhận Tổng thống có quyền sáng kiến luật mà chỉ quy định quyền này thuộc về Thủ tướng và các nghị sĩ. Vì thế, nếu Tổng thống có quyền sáng kiến luật thì phải thông qua Thủ tướng để Thủ tướng đệ trình lên Nghị viện. Tuy nhiên, trên thực tế, Tổng thống vẫn có thể can dự vào quá trình làm luật của Nghị viện thông qua việc Tổng thống gửi thông điệp đến Nghị viện, định hướng cho Nghị viện thảo luận. Đó là cách thức để Tổng thống can thiệp vào quy trình lập pháp của Nghị viện, bởi qua thông điệp này, Tổng thống đã thể hiện mong muốn của mình và Nghị viện - một cách gián tiếp - phải cụ thể hóa mong muốn của Tổng thống bằng các đạo luật[31].

Nghị viện nhân dân ở Hiến pháp Việt Nam năm 1946 của Việt Nam là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (Điều thứ 22), có quyền giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc như: Đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài (Điều thứ 23) (Hiến pháp năm 1946 phân biệt rạch ròi giữa Quốc hội lập hiến và Nghị viện nhân dân tức là “Quốc hội lập pháp”, Điều thứ 23 chỉ quy định Nghị viện nhân dân có quyền “đặt ra các pháp luật” chứ không có quyền làm Hiến pháp); có thể tự giải tán trong trường hợp hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý (Điều thứ 33). Cần phải lưu ý rằng, tuy Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất, nhưng không có nghĩa Nghị viện nhân dân có quyền quyết định mọi vấn đề (các điều thứ 21, 32 và 70 quy định việc sửa đổi Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia phải do nhân dân phúc quyết). Có thể thấy, Hiến pháp năm 1946 phân định chủ quyền nhân dân và quyền lực nhà nước rất rõ rệt: Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân trao cho Nhà nước, nhưng nhân dân không trao hết toàn bộ quyền lực của mình mà đối với những vấn đề tối quan trọng liên quan đến vận mệnh của quốc gia hay Hiến pháp thì nhân dân vẫn giữ quyền quyết định sau cùng[32].

Như vậy, chính thể cộng hòa hỗn hợp có xu hướng Nghị viện bị hợp lý hóa có nghĩa là Nghị viện bị giảm quyền lực lập pháp (bãi bỏ địa vị ưu thế của Nghị viện)[33]. Như đã đề cập ở trên, nguyên thủ quốc gia trở thành lực lượng đối trọng lại, cân bằng với quyền lực của Nghị viện nhằm hạn chế tình trạng quyền lực tập trung quá lớn vào một phía.

Thứ ba, Chính phủ:

Chính phủ Pháp có chức năng xây dựng và thực hiện chính sách quốc gia, nắm giữ, điều hành hệ thống hành chính và các lực lượng vũ trang, chịu trách nhiệm trước Nghị viện và Tổng thống (Điều 20 Hiến pháp Cộng hòa Pháp năm 1958). Mặc dù có Thủ tướng đứng đầu nhưng vẫn phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng thống, cụ thể: Thủ tướng chỉ được quyền lãnh đạo các phiên họp khi Tổng thống cho phép (như một phiên trù bị) và chỉ được quyền chủ tọa các phiên họp nội các để chuẩn bị cho các phiên họp chính thức của Hội đồng Bộ trưởng dưới sự chỉ đạo của Tổng thống. Mặt khác, theo Điều 39 Hiến pháp Cộng hòa Pháp năm 1958 thì cả Thủ tướng và thành viên Chính phủ có quyền sáng kiến lập pháp (Thủ tướng có quyền đưa ra sáng kiến lập pháp, tự mình tham gia vào việc xây dựng dự án luật, có thể tham gia hoạt động của các Ủy ban thuộc Nghị viện)và theo Điều 45 Hiến pháp này thì Thủ tướng có quyền triệu tập phiên họp hỗn hợp giữa các Ủy ban của Thượng viện và Hạ viện khi hai Viện này có sự bất đồng ý kiến về một dự luật (nếu hòa giải không thành thì Thủ tướng sẽ đề nghị Hạ viện chung quyết với tỷ lệ hai phần ba tổng số Hạ nghị sĩ; riêng các luật về tổ chức có liên quan tới Thượng viện thì phải được cả Thượng viện và Hạ viện thông qua, có nghĩa là Chính phủ không thể đề nghị Hạ viện nói “lời cuối cùng” bất chấp sự phản đối của Thượng viện, như vậy, chỉ khi nào Chính phủ muốn một dự luật được Nghị viện thông qua thì mới tiến hành thủ tục đưa ra Ủy ban hỗn hợp, còn nếu Chính phủ không muốn dự luật thông qua thì về mặt lý thuyết, dự luật đó có thể chuyển qua chuyển lại giữa hai Viện mà không có “hồi kết”). Ngoài ra, Thủ tướng còn có thể yêu cầu Tổng thống kiến nghị với Nghị viện xem xét lại dự án luật (đặc biệt, Chính phủ có thể cam kết trách nhiệm trước Hạ viện trong trường hợp muốn bảo vệ một dự luật nào đó thường là do Chính phủ đưa ra sáng kiến, nếu Chính phủ cho là việc ban hành đạo luật đó là cấp bách mà Hạ viện không ủng hộ thì khi đó, văn bản luật cũng có thể được coi như là được thông qua và có hiệu lực trong một thời hạn nhất định), đóng vai trò như “nhà lập pháp thứ hai”[34] và khá

Bênh cạnh đó, Hiến pháp năm 1946 của Việt Nam không quy định Chính phủ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là cơ quan chấp hành của Nghị viện nhân dân, cho thấy địa vị độc lập tương đối của Chính phủ với cơ quan lập pháp. Với vị trí, tính chất là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước, nên việc thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện là chức năng, nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu của Chính phủ; đồng thời, Chính phủ xây dựng và trình trước Nghị viện các dự án luật, sắc luật; lập dự án ngân sách hằng năm. Việc bãi bỏ mệnh lệnh và nghị quyết của cơ quan cấp dưới là hoạt động nhằm bảo đảm sự thống nhất của việc thực hiện quyền lực hành chính, sự thống nhất của pháp luật; còn việc bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên trong các cơ quan hành chính hoặc chuyên môn chỉ là hoạt động có tính hệ quả tất yếu của hoạt động hành chính - xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước. Với những quy định nêu trên có thể khẳng định rằng, Hiến pháp tạo cho Chính phủ những quyền khá độc lập với Nghị viện; thực chất Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, mặc dù thuật ngữ hành pháp chưa được sử dụng trong Hiến pháp[36]. Ngoài ra, Nội các của Chính phủ do Thủ tướng đứng đầu, có các quyền hạn như: Thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện; sáng kiến lập pháp; bãi bỏ những mệnh lệnh và nghị quyết của cơ quan cấp dưới; bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên trong các cơ quan hành chính hoặc chuyên môn;…(Điều thứ 52).

Như vậy, chính thể cộng hòa hỗn hợp ở Hiến pháp Cộng hòa Pháp năm 1958 và Hiến pháp năm 1946 của Việt Nam đều cho thấy sự tích cực của Chính phủ trong lĩnh vực lập pháp, là dấu hiệu đầu tiên thể hiện sự suy yếu của Nghị viện trước Chính phủ và cũng là của lập pháp trước hành pháp. Chính phủ không chỉ chia sẻ, mà ở những khâu quan trọng, Chính phủ có khả năng trực tiếp như một chủ thể chính thức và chủ yếu của việc làm luật[37].

2.3. Cơ chế chịu trách nhiệm giữa nguyên thủ quốc gia, Nghị viện và Chính phủ

Thứ nhất, giữa nguyên thủ quốc gia với Nghị viện:

Về cơ bản, Tổng thống Pháp chỉ phải chịu trách nhiệm trước nhân dân chứ không phải chịu một sức ép nào hay một trách nhiệm nào trước các nhánh quyền lực khác (thông qua cuộc trưng cầu ý dân, Tổng thống có thể phải từ chức). Nghị viện Pháp có thể không thông qua chính sách và chiến lược phát triển đất nước của Tổng thống, gây khó khăn cho việc thực thi chính sách của Tổng thống. Ngược lại, khi Tổng thống nhận một dự luật đã được hai Viện thông qua thì Tổng thống có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại về toàn bộ hoặc một số điều luật. Trong trường hợp này, Nghị viện phải xem xét theo yêu cầu của Tổng thống. Bên cạnh đó, Tổng thống có quyền yêu cầu Hội đồng Bảo hiến xem xét lại tính hợp hiến của đạo luật. Nếu Hội đồng Bảo hiến kết luận đạo luật đó vi hiến thì Tổng thống có quyền phủ quyết đạo luật đó. Với tư cách là nguyên thủ quốc gia, Tổng thống được hưởng quyền miễn trừ trong mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, khi Tổng thống phạm một tội đặc biệt nghiêm trọng (tội phản quốc) thì Nghị viện có thể nêu vấn đề phế truất (Điều 68 Hiến pháp Cộng hòa Pháp năm 1958). Có nghĩa là Nghị viện không có quyền trực tiếp phế truất Tổng thống nhưng lại có vai trò là “đường dẫn” đến việc phế truất. Ngoài ra, cũng theo Điều 68 này, Tòa án tối cao là cơ quan duy nhất có quyền xét xử Tổng thống nếu Tổng thống bị truy tố bởi hai Viện bằng hai cuộc bỏ phiếu theo nguyên tắc đa số tuyệt đối[39].

Tại Việt Nam, Hiến pháp năm 1946 quy định chế định Chủ tịch nước hết sức độc đáo, đặc biệt là trong mối quan hệ với Nghị viện nhân dân. Tuy do Nghị viện nhân dân bầu ra nhưng với nhiệm kỳ dài hơn nhiệm kỳ của Nghị viện nhân dân. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước là 05 năm còn nhiệm kỳ của Nghị viên nhân dân lại là 03 năm. Vì vậy, nhiệm kỳ của Chủ tịch nước không phụ thuộc vào nhiệm kỳ của Nghị viện, đây là sự biểu hiện của tính độc lập tương đối của chế định Chủ tịch nước với chế định Nghị viện. Việc quy định Chủ tịch nước với vị trí độc lập tương đối so với Nghị viện là thiết chế bảo vệ thành quả mà Đảng cộng sản Việt Nam đã giành được và chống lại các lực lượng đối lập trong và ngoài nước một cách hiệu quả nhất. Chủ tịch nước lại không chịu trách nhiệm trước Nghị viện, không thể bị Nghị viện bất tín nhiệm, có quyền yêu cầu Nghị viện xem xét lại đạo luật đã thông qua và không chịu bất kỳ trách nhiệm nào trừ tội phản quốc. Nếu có chứng cứ cho rằng Chủ tịch nước phản bội Tổ quốc thì Nghị viện phải thành lập một Tòa án đặc biệt xét xử (Điều thứ 51). Với những quyền hạn to lớn của mình, Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946 thậm chí được xem là “mạnh” như Tổng thống trong chính thể cộng hòa tổng thống.

Như vậy, chính thể cộng hòa hỗn hợp mong muốn hạn chế sự chuyên quyền của Tổng thống trong chính thể cộng hòa tổng thống nhưng lại “vô tình” tạo nên cơ chế nguyên thủ quốc gia chuyên quyền hơn.

Thứ hai, giữa Chính phủ với Nghị viện:

Theo Hiến pháp Cộng hòa Pháp năm 1958 thì Chính phủ chịu trách nhiệm trước Hạ viện (Điều 20). Theo đó, các Nghị sĩ có thể chất vấn Chính phủ, Nghị viện có thể thành lập các Ủy ban điều tra nhằm tìm kiếm thông tin về hoạt động của Chính phủ trong một vụ việc nhất định (Điều 49). Nếu Hạ viện thông qua một sự chỉ trích hay không chấp nhận chương trình hoạt động của Chính phủ thì Thủ tướng phải đệ đơn từ chức lên Tổng thống (Điều 50). Tổng thống sẽ chấm dứt nhiệm vụ của Thủ tướng và theo đề nghị của Thủ tướng, Tổng thống chấm dứt nhiệm vụ của các Bộ trưởng (Điều 8). Quy định của Hiến pháp như vậy nhưng trong thực tiễn Pháp, Hạ viện chỉ một lần duy nhất bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ[40].

Tại Việt Nam, Chính phủ ít nhiều phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Bộ trưởng tự chịu trách nhiệm cá nhân trước Nghị viện, nếu không được Nghị viện tín nhiệm thì phải từ chức. Hiến pháp quy định rõ rằng, toàn thể Nội các không phải chịu liên đới trách nhiệm về hành vi của một Bộ trưởng. Thủ tướng phải chịu trách nhiệm về con đường chính trị của Nội các và trong hạn 24 giờ sau khi Nghị viện biểu quyết không tín nhiệm Nội các thì Chủ tịch nước có quyền đưa vấn đề tín nhiệm ra Nghị viện thảo luận lại. Cuộc thảo luận lần thứ hai phải cách cuộc thảo luận lần thứ nhất là 48 giờ. Sau cuộc biểu quyết này, Nội các mất tín nhiệm phải từ chức (Điều thứ 54). Những quy định này không khác gì với cơ chế “Nghị viện giải tán Chính phủ” được quy định trong Hiến pháp của nhiều quốc gia đương đại[41].

Từ những phân tích trên cho thấy, sự chịu trách nhiệm của Chính phủ trước Nghị viện là một đặc trưng của chính thể đại nghị nhưng đặc trưng này lại khá mờ nhạt ở chính thể hỗn hợp vì e ngại sự giải tán của nguyên thủ quốc gia.

Thứ ba, giữa Chính phủ với nguyên thủ quốc gia:

Ở Pháp, Chính phủ không những phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện mà còn phải chịu trách nhiệm thực sự trước Tổng thống. Chính phủ Pháp có Thủ tướng đứng đầu nhưng thực ra Chính phủ đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng thống. Thủ tướng có trách nhiệm tổ chức việc thực thi các chính sách của Tổng thống và phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện và Tổng thống về việc thực thi các chính sách này. Trong trường hợp không thực thi được thì Thủ tướng và các Bộ trưởng phải từ chức, Tổng thống không phải chịu trách nhiệm (theo quy tắc “không chịu trách nhiệm” của nguyên thủ quốc gia trong chế độ đại nghị)[42].

Tại Việt Nam, với chế độ “hành pháp hai đầu”, một phần quyền lực hành pháp thuộc về Chủ tịch nước, một phần thuộc về Thủ tướng, nhưng chủ yếu tập trung vào Chủ tịch nước[43]. Thủ tướng phải chịu trách nhiệm về con đường chính trị của Nội các và Thủ tướng do Chủ tịch nước chọn trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết do đó phần nào Thủ tướng phải chịu trách nhiệm trước Chủ tịch nước và Nghị viện nhân dân. Bên cạnh đó, mỗi Sắc lệnh của Chính phủ phải có chữ ký của Chủ tịch nước và tuỳ theo quyền hạn các Bộ, phải có một hay nhiều vị Bộ trưởng tiếp ký (Điều thứ 53 Hiến pháp năm 1946).

Có thể thấy, điểm đặc trưng của cộng hòa lưỡng tính là sự chia sẻ quyền hành pháp giữa Thủ tướng và Tổng thống (Chủ tịch nước). Sự phân bổ quyền lực giữa hai chức danh này ở mỗi quốc gia có thể có sự khác biệt nhưng việc xác lập vai trò hoạch định chính sách của nguyên thủ quốc gia và quyền lập quy của cơ quan hành pháp được coi là một trong những thành công lớn nhất của chính thể này trong lịch sử lập hiến của nhân loại. Tuy nhiên, một trong những điểm yếu trong chính thể cộng hòa hỗn hợp là Thủ tướng có vai trò mờ nhạt, chỉ như “người trợ lý” của nguyên thủ quốc gia.

3. Kết luận

Sự xuất hiện của hình thức chính thể cộng hòa hỗn hợp là một sự sáng tạo nhằm hạn chế những nhược điểm của hình thức chính thể cộng hòa đại nghị và cộng hòa tổng thống, cũng như có quan điểm cho rằng “những ai sợ rằng quyền hành pháp có tiềm năng trở nên chuyên chế sẽ có khuynh hướng nhấn mạnh đến vai trò của Nghị viện; còn những người lo ngại về khả năng lạm dụng quyền hành của đa số nhất thời ở viện lập pháp sẽ khẳng định uy quyền của Tổng thống”[44] và có lẽ nếu có ai lo ngại cả hai mối nguy trên thì sẽ chọn mô hình chính thể cộng hòa hỗn hợp. Tuy nhiên, trong thực tiễn sinh hoạt chính trị của các quốc gia đã không đạt được những mong muốn ban đầu mà đôi khi bị lệch hướng giúp cho nguyên thủ quốc gia có quá nhiều quyền hành (như một nhà “quân chủ”) dẫn tới sự lu mờ của Nghị viện hoặc trong trường hợp “chung sống chính trị”, quyền hành pháp bị chia tách giữa Tổng thống (Chủ tịch nước) và Thủ tướng mang lại sự mâu thuẫn, sự tranh giành quyền lực, bất ổn và kém năng động[45]./.

Huỳnh Thị Hồng Nhiên

Khoa Luật Hành chính - Nhà nước,

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Ảnh: internet


[1] Nguyễn Đăng Dung (chủ biên), Giáo trình Luật Hiến pháp các nước tư bản, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001.

[2] Khi không có đảng nào chiếm đa số thì đảng nào chiếm nhiều ghế nhất (thường được gọi là đảng thành lập, hay đảng nòng cốt - formateur party) sẽ chịu trách nhiệm xây dựng liên minh cầm quyền. Đảng này sẽ tìm một đối tác liên minh, hoặc đôi khi là vài đối tác khác nhau và sau khi có đủ sự ủng hộ để giúp liên minh giành đa số ghế, các đảng này sẽ cùng nhau xác định Thủ tướng, các vị trí Nội các và các chức vụ lãnh đạo khác. Mặc dù đây là cách thường làm nhưng cũng có những trường hợp không hình thành được một Chính phủ liên minh, kể cả khi không có đảng chiến thắng đa số. Theo Joseph W. Robbins, “Presidentialism versus Parliamentalism”, in John T. Ishiyama and Marijke Breuning (eds), 21st Century Political Science: A Reference Handbook, (Thousand Oaks, CA: SAGE Publications, 2011), tr. 177 - 185.

[3] Bởi vì sự tồn vong chính trị của họ tùy thuộc vào hợp tác nên các thành viên của cơ quan lập pháp sẵn sàng làm việc với nhánh hành pháp nhiều hơn so với các nhà lập pháp ở chế độ tổng thống. Hơn nữa, mặc dù các Tòa án được thành lập và vận hành đầy đủ trong nhiều nền dân chủ nhưng thường thì trong các Chính phủ đại nghị không có chuyện phân chia quyền lực hay kiểm soát và cân bằng giữa các nhánh lập pháp và hành pháp như trong các Chính phủ tổng thống. Theo Joseph W. Robbins, “Presidentialism versus Parliamentalism”, in John T. Ishiyama and Marijke Breuning (eds), 21st Century Political Science: A Reference Handbook, (Thousand Oaks, CA: SAGE Publications, 2011), tr. 177 - 185.

[4] Ngoại trừ Hoa Kỳ, các chính thể tổng thống ở các quốc gia khác đều không mang lại nhiều thành công. Theo Bùi Tiến Đạt, “Nhận diện chính thể “cộng hòa lưỡng tính””, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế - Luật 23 (2007), tr. 236.

[5] Bùi Tiến Đạt, “Nhận diện chính thể “cộng hòa lưỡng tính””, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế - Luật 23 (2007), tr. 236.

[6] Lịch sử hiến pháp của Pháp được bắt đầu từ cuộc cách mạng năm 1789. Trong thời gian từ năm 1789 đến năm 1958, nước này đã trải qua 12 chế độ chính trị với 16 bản Hiến pháp khác nhau, trong đó có 05 nền cộng hòa. Các xu hướng chính trị thay đổi hết sức năng động đã tạo ra sự bất ổn cho nền chính trị Pháp. Sự bế tắc chính trị chỉ được giải quyết khi tướng De Gaulle lên nắm quyền và khởi xướng việc viết một bản Hiến pháp mới, chấm dứt tình trạng bất ổn kéo dài. Theo Lưu Văn Quảng, “Thể chế chính trị cộng hòa”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10(95), 2015, tr. 109.

[7] Hai giải pháp cốt lõi để đạt mục tiêu trên là trao thêm quyền lực cho nguyên thủ quốc gia, không chỉ còn là hành pháp tượng trưng, mà phải trực tiếp điều hành đất nước, nhất là trong cơn khủng hoảng và tăng cường quyền lực cho Thủ tướng bằng cách hạn chế quyền của Nghị viện. Theo Alex N Dragnich, Những đại chính thể ở châu Âu - Major European Government, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam, 1964, tr. 189.

[8] S. Berstein, Chân dung các Nguyên thủ Pháp, Nxb. Tri thức, 2006.

[9] Một số nước ở châu Phi, bộ máy nhà nước mang tính tập quyền, quyền lực tập trung vào tay Tổng thống, trong khi quyền lực của Nghị viện rất mờ nhạt. Thậm chí đã có thời kỳ biến dạng thành chính thể độc tài, Nghị viện bị giải tán hoặc không còn quyền lực trên thực tế. Theo Chu Nguyên Dương, “Tổng quan về cơ quan lập pháp các nước trên thế giới”, http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=209178, truy cập ngày 26/02/2024.

[10] Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên), Chính trị học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2020, tr. 253.

[11] Phổ thông đầu phiếu trực tiếp có nghĩa là tất cả công dân Pháp từ 18 tuổi trở lên có thể đi bỏ phiếu, dù sinh sống tại Pháp hay tại nước ngoài và cử tri trực tiếp bầu ứng cử viên qua lá phiếu của mình.

[12] Theo quy định từ nền Cộng hòa thứ ba, nhiệm kỳ của Tổng thống là 07 năm và có thể tái cử. Theo Charles de Gaulle và những người ủng hộ nhiệm kỳ dài, Tổng thống sẽ có đủ thời gian để thực hiện những chính sách lón phục vụ dân tộc, bảo đảm sự hoạt động liên tục của cơ quan công quyền và tránh cho Tổng thống không bị ảnh hưởng bởi những mâu thuẫn giữa các đảng phái. Tuy nhiên, từ năm 1972, đã có những ý kiến cho rằng, nên rút ngắn nhiệm kỳ của Tổng thống vì 07 năm là quá lâu và việc giảm xuống còn 05 năm đã trở thành hiện thực. Theo Nguyễn Xuân Tế và Trần Thị Thùy Dương, “Tổ chức bộ máy nhà nước Cộng hòa Pháp theo Hiến pháp 1958”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 6, tháng 6/2002.

[13] Ở vòng 1, ứng cử viên cao phiếu nhất đạt đa số tuyệt đối trên tỷ lệ phiếu bầu thì ứng cử viên đó sẽ trúng cử. Nhưng nếu ở vòng 1 không có ứng cử viên nào đạt đa số tuyệt đối trên 50% số phiếu bầu thì sẽ tiến hành bầu cử vòng 2. Ở vòng 2 chỉ chọn 02 ứng cử viên cao phiếu nhất ở vòng 1. Cuộc bầu cử vòng 2 sẽ diễn ra vào ngày chủ nhật tiếp sau đó. Ở vòng 2, Tổng thống được bầu theo đa số tương đối (người trúng cử là người cao phiếu nhất nhưng không nhất thiết phải quá 50% số phiếu bầu). Theo Bộ Ngoại giao Pháp, “Chi tiết tiến trình bầu cử Tổng thống Pháp”, truy cập tại diplomatiea.gouv.fr - @francediplo, ngày 27/02/2024.

[14] Ứng cử viên nào nhận được số phiếu cao nhất thì thắng cử, không kể số phiếu mà họ nhận được là đa số tuyệt đối hay không. Theo Vũ Văn Nhiêm (Chủ biên), Giáo trình Bầu cử trong nhà nước pháp quyền (tái bản lần 1, có sửa đổi, bổ sung), Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 2017, tr. 148.

[15] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến pháp nước ngoài, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2019, tr. 255.

[16] So với Nghị viện của các quốc gia đương thời, nhiệm kỳ của Nghị viện nhân dân tương đối ngắn. Điều này giúp nhân dân sớm có cơ hội lựa chọn lại những nghị viên đại diện cho mình, đặc biệt trong hoàn cảnh Nghị viện nhân dân lúc bấy giờ gồm nhiều thành phần, đa đảng, đồng thời góp phần tăng cường khả năng chịu trách nhiệm của Nghị viện trước người dân. Theo Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh - Khoa Luật Hành chính - Nhà nước, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam (tái bản lần 1, có sửa đổi, bổ sung), Nxb. Hồng Đức, 2021, tr. 84 - 85.

[17] Kế thừa và tổng kết từ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ngày 06/01/1946.

[18] Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Tập bài giảng Lý luận về Nhà nước (tái bản lần 1, có sửa đổi, bổ sung), Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, 2018, tr. 205 - 206.

[19] Georges Burdeau, Francis Hamon, Michel Troper, Droit constitutionel, Nxb. LGDJ, Paris, 1991, tr. 531.

[20] Chính phủ chịu trách nhiệm trước Hạ viện và phải từ chức nếu Hạ viện bất tín nhiệm.

[21] Bùi Tiến Đạt, “Nhận diện chính thể “cộng hòa lưỡng tính””, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế - Luật 23 (2007), tr. 237.

[22] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến pháp nước ngoài, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2019, tr. 243 - 244.

[23] Quyền này bị hạn chế trong các trường hợp sau: (i) Không thể thực hiện 02 lần trong 01 năm; (ii) Không thể thực hiện trong thời gian áp dụng tình trạng khẩn cấp; (iii) Không thể thực hiện bởi Tổng thống tạm quyền. Theo Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang, Nguyễn Văn Trí, Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp - Kinh nghiệm thế giới và Việt Nam (sách chuyên khảo - tái bản, chỉnh lý, có bổ sung), Nxb. Hồng Đức, 2014, tr. 122.

[24] Hiến pháp Cộng hòa Pháp năm 1958 đã tính đến hai khả năng có thể xảy ra đối với các dự luật khi được gửi đến cho Tổng thống. Khả năng thứ nhất, Tổng thống có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại về toàn bộ hoặc một số điều luật và theo quy định của Hiến pháp, Nghị viện phải xem xét theo yêu cầu của Tổng thống. Khả năng thứ hai, Tổng thống yêu cầu Hội đồng Bảo hiến xem xét lại tính hợp hiến của đạo luật đó. Nếu Hội đồng Bảo hiến kết luận đạo luật đó vi hiến thì Tổng thống có quyền phủ quyết đạo luật đó. Không những thế, Tổng thống Cộng hòa Pháp có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của Thủ tướng ra sắc lệnh nhằm triệu tập phiên họp bất thường của Nghị viện. Theo Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên), Hệ thống chính trị Anh, Pháp, Mỹ - Mô hình tổ chức và hoạt động, Nxb. Lý luận Chính trị, 2007, tr. 186 - 187.

[25] Bùi Tiến Đạt, “Nhận diện chính thể “cộng hòa lưỡng tính””, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế - Luật 23 (2007), tr. 238.

[26] Bùi Xuân Đức, Chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946 và sự phát triển qua các Hiến pháp 1959, 1980 và 1992, Hiến pháp 1946 và sự kế thừa, phát triển trong các Hiến pháp Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 301.

[27] Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Nghị viện nhân dân thảo luận lại các đạo luật trước khi ban bố. Những luật đem ra thảo luận lại, nếu vẫn được Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch phải ban bố (Điều thứ 31). Quyền này có nhiều điểm tương đồng với quyền phủ quyết của Tổng thống trong cộng hòa tổng thống và xuất phát từ yêu cầu thực tiễn nhằm tạo ra một cơ chế mang tính đối phó trong trường hợp Nghị viện nhân dân với thành phần phức tạp thông qua những đạo luật không phù hợp với yêu cầu của đất nước. Theo Đỗ Minh Khôi (Chủ biên), Chế định nguyên thủ quốc gia trong các Hiến pháp Việt Nam (sách tham khảo), Nxb. Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội, 2014, tr. 95.

[28] Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên), Chính trị học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2020, tr. 258.

[29] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến pháp nước ngoài, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2019, tr. 259.

[30] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến pháp nước ngoài, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2019, tr. 261.

  1. Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Mai Anh, Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong chính thể cộng hòa hỗn hợp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5(381), tháng 3/2019.

  1. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh - Khoa Luật Hành chính - Nhà nước, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam (tái bản lần 1, có sửa đổi, bổ sung), Nxb. Hồng Đức, tr. 85 - 86.

[33] Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên), Chính trị học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2020, tr. 256.

[34] Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên), Hệ thống chính trị Anh, Pháp, Mỹ - Mô hình tổ chức và hoạt động, Nxb. Lý luận Chính trị, 2007, tr. 186 - 187.

[35] Chẳng hạn, Thủ tướng điều khiển hoạt động của Chính phủ. Thủ tướng chịu trách nhiệm về quốc phòng, bảo đảm việc thực thi pháp luật (Điều 21); Thủ tướng là người duy nhất có quyền thỉnh cầu Hội đồng Kinh tế - xã hội; được Tổng thống hỏi ý kiến trong hai trường hợp: Giải tán Hạ nghị viện (Điều 12) và sử dụng quyền hạn đặc biệt (Điều 16);... Theo Bùi Tiến Đạt, Chính thể “Cộng hòa lưỡng tính”: sáng tạo nhưng đầy bất trắc trong “Hiến pháp: Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011, tr. 172.

[36] Phạm Hồng Thái, Vị trí, tính chất pháp lý của Chính phủ qua các Hiến pháp Việt Nam và vấn đề sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học, Tập 29, số 1 (2013), tr. 52.

[37] Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên), Hệ thống chính trị Anh, Pháp, Mỹ - Mô hình tổ chức và hoạt động, Nxb. Lý luận Chính trị, 2007, tr. 186 - 187.

[38] Karl Loewenstein, The Balance between Legislative and Executive Power: A Study in Comparative Constitutional Law, The University of Chicago Law Review, Vol. 5, No. 4 (Jun., 1938), pp. 566 - 608.

[39] Bùi Tiến Đạt, “Nhận diện chính thể “cộng hòa lưỡng tính””, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế - Luật 23 (2007), tr. 239 - 242.

[40] Năm 1962, Hạ viện đã thông qua cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ của Thủ tướng Gcorge Pompidou. Tuy nhiên, sau đó, chính Hạ viện lại bị Tống thống De Gaulle giải tán. Theo Emile Picy, “French government survives no-confidence vote”, Wayback Machine, Reuters, https://www.reuters.com/article/2015/02/19/us-france-politics-vote-idUSKBN0LN1U720150219/, truy cập ngày 29/02/2024.

[41] Phạm Hồng Thái, “Phát huy những giá trị lịch sử, chính trị, pháp lý của Hiến pháp 1946 trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Tổ chức quyền lực nhà nước trong Hiến pháp 1946 – giá trị mang tính thời đại”, https://quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.aspx?AnPhamItemID=268, truy cập ngày 29/02/2024.

[42] Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên), Chính trị học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2020, tr. 254.

[43] Phạm Hồng Thái, “Tổ chức quyền lực nhà nước trong Hiến pháp 1946 - Giá trị mang tính thời đại”, Hội thảo Phát huy những giá trị lịch sử, chính trị, pháp lý của Hiến pháp 1946 trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Trung tâm Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu Khoa học, Văn phòng Quốc hội tổ chức, tháng 01/2007.

[44] “Russia”, Microsoft Encarta 2007 (DVD), Microsoft Corporation, 2006 and “France”, Microsoft Encarta 2007 (DVD), Microsoft Corporation, 2006.

[45] Bùi Tiến Đạt, “Nhận diện chính thể “cộng hòa lưỡng tính””, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế - Luật 23 (2007), tr. 244 - 245.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Hiện nay, các tội phạm sử dụng công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội diễn ra ngày càng phổ biến. Một trong những công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội, nguy hiểm, gây ra thiệt hại lớn cho xã hội được các tội phạm sử dụng nhiều nhất, chính là sử dụng mã độc tống tiền (Ransomware). Vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật để kịp thời phòng, chống những tác hại của Ransomware là thực sự cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Bài viết nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật của Hoa Kỳ và Trung Quốc, từ đó, kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Pháp luật về hòa giải thương mại của Việt Nam và Ấn Độ - Góc nhìn so sánh và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Việt Nam và Ấn Độ đều có khung pháp lý điều chỉnh hoạt động hòa giải thương mại, nhưng có sự khác biệt đáng kể về cơ chế vận hành và thực thi. Bài viết sử dụng phương pháp so sánh luật học để phân tích và đối chiếu quy định pháp luật giữa hai quốc gia, đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp luật về hòa giải thương mại tại Việt Nam.

Vai trò của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp và giá trị tham khảo cho Việt Nam

Nội các Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong quá trình lập pháp với quyền đề xuất hầu hết các dự thảo luật trình lên Quốc hội. Bài viết nghiên cứu, phân tích vị trí, vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp, từ sáng kiến đến soạn thảo, đánh giá và thông qua luật. Đồng thời, so sánh với quy trình lập pháp tại Việt Nam, chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt quan trọng. Từ đó, đề xuất các giá trị mà Việt Nam có thể tham khảo nhằm nâng cao vị trí và vai trò của Chính phủ trong quá trình xây dựng pháp luật.

Hình phạt tiền - Dưới góc nhìn so sánh pháp luật hình sự Việt Nam với Liên bang Úc và kinh nghiệm cho Việt Nam

Hình phạt tiền ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong hệ thống hình phạt của nhiều quốc gia, kể cả Việt Nam và Liên bang Úc, như một biện pháp hiệu quả để xử lý các hành vi phạm tội, đặc biệt là các tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm do pháp nhân thực hiện. Bài viết phân tích quy định pháp luật hình sự về hình phạt tiền của Việt Nam và Liên bang Úc, làm rõ sự khác biệt về đối tượng pháp nhân chịu trách nhiệm, phương pháp xác định mức phạt, các yếu tố Tòa án cân nhắc và cơ chế thi hành; từ đó, rút ra một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo đối với Việt Nam.

Kết đôi dân sự theo pháp luật của Pháp và gợi mở quy chế pháp lý cho cặp đôi không muốn kết hôn tại Việt Nam

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã ghi nhận và thiết lập quy định liên quan đến vấn đề chung sống như vợ chồng, bởi đây là hiện tượng khách quan và phổ biến trong xã hội. Bộ luật Dân sự Pháp đã thiết kế chế định kết đôi dân sự để điều chỉnh mối quan hệ giữa các cặp đôi chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn. Bài viết phân tích chế định kết đôi dân sự ở Pháp, thực trạng chung sống như vợ chồng ở Việt Nam và gợi mở về một số thay đổi của chính sách, pháp luật hôn nhân và gia đình tại Việt Nam.
Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh là một cơ chế pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của cổ đông và công ty. Hình thức kiện này đã hình thành từ rất lâu tại Anh và được xây dựng dựa trên nền tảng thông luật. Ở Việt Nam, kiện phái sinh mới chỉ được ghi nhận thông qua các quy định pháp luật trong thời gian gần đây. Bài viết phân tích các quy định pháp lý về hình thức kiện phái sinh tại Vương quốc Anh, đánh giá những ưu điểm, hạn chế của cơ chế này, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện cơ chế kiện phái sinh, phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam.

Xây dựng mô hình Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ tại Việt Nam - Kinh nghiệm từ Nhật Bản và Vương quốc Anh

Bài viết so sánh mô hình Tòa Thượng thẩm sở hữu trí tuệ chuyên sâu Nhật Bản và hệ thống Tòa án sở hữu trí tuệ xét xử linh hoạt ở Anh, từ đó, rút ra khuyến nghị cho Việt Nam, đề xuất thành lập Tòa án chuyên biệt về sở hữu trí tuệ tại các trung tâm kinh tế lớn, kết hợp mô hình xét xử phù hợp để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả.

Thuế carbon và cơ chế điều chỉnh biên giới carbon - Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý khung pháp lý cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada trong thiết kế và thực thi chính sách định giá carbon, đồng thời, chỉ ra những khoảng trống của pháp luật Việt Nam, đặc biệt, về Hệ thống đo lường, giám sát phát thải và Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon. Trên cơ sở đó, đề xuất lộ trình xây dựng luật thuế carbon, tích hợp Hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định, Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon nội địa và quy trình quản lý thuế minh bạch, giúp Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, bảo vệ doanh nghiệp và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ - Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu về trí tuệ nhân tạo (AI), sự cần thiết ứng dụng AI trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) nhìn từ kinh nghiệm của một số quốc gia, khu vực dẫn đầu trong việc ứng dụng AI vào bảo hộ quyền SHTT như Hoa Kỳ, châu Âu, Trung Quốc… từ đó, nghiên cứu đưa ra một số gợi mở cho việc ứng dụng AI trong việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến việc ứng dụng AI vào hoạt động bảo hộ quyền SHTT.

Chuẩn hợp đồng (Quasi contract) - Cơ sở pháp lý và đề xuất áp dụng tại Việt Nam

Bài viết phân tích khái niệm chuẩn hợp đồng (Quasi contract) trong hệ thống pháp luật Common Law và sự tương đồng với một số quy định trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, đồng thời đề xuất việc nghiên cứu lựa chọn có chọn lọc và áp dụng Quasi contract vào hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp và bảo vệ quyền lợi các bên.

Bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo - Nhìn từ thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết phân tích chính sách bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư liên quan đến trí tuệ nhân tạo (AI) ở một số quốc gia trên thế giới, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam về vấn đề này.

Cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba tại Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho Việt Nam

Bài viết phân tích cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba (cơ chế Safe Harbor) trong luật pháp Hoa Kỳ và Việt Nam, từ đó, đưa ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật liên quan đến các trường hợp miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet.

Xây dựng luật thuế các-bon - Kinh nghiệm Singapore và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Thuế các-bon là một công cụ tài chính quan trọng nhằm giảm phát thải khí nhà kính bằng cách định giá lượng khí CO₂ thải ra môi trường. Việc áp dụng thuế này không chỉ giúp kiểm soát ô nhiễm mà còn tạo nguồn thu để đầu tư vào các giải pháp phát triển bền vững. Trong bối cảnh đã có nhiều quốc gia xây dựng, ban hành và áp dụng thuế các-bon, Việt Nam cần cân nhắc xây dựng khung pháp lý phù hợp cho việc áp dụng thuế các-bon trong nước. Singapore là một trong những quốc gia đi đầu ở Đông Nam Á trong xây dựng, áp dụng pháp luật về thuế các-bon với nhiều điểm nổi bật mà Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc, phù hợp với thực tế của Việt nam. Xuất phát từ đó, bài viết làm rõ một số kinh nghiệm nổi bật của Singapore về xây dựng Luật thuế các-bon, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích quy định về xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 ngày 23/10/2024 của Nghị viện và Hội đồng châu Âu về việc cải thiện điều kiện làm việc đối với công việc nền tảng (Chỉ thị (EU) 2024/2831) và thực trạng xác định tình trạng lao động tại Việt Nam hiện nay, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Miễn trừ thông báo tập trung kinh tế - Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tập trung kinh tế là quá trình giảm số lượng doanh nghiệp độc lập trên thị trường thông qua sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh nhằm mở rộng quy mô và nâng cao khả năng cạnh tranh. Hành vi này giúp tối ưu nguồn lực nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ hạn chế cạnh tranh, dẫn đến độc quyền, ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường và người tiêu dùng. Pháp luật cạnh tranh của Mỹ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản kiểm soát tập trung kinh tế qua quy định về thông báo giao dịch và các trường hợp miễn trừ thông báo đối với hành vi tập trung kinh tế ít tác động đến thị trường. Từ kinh nghiệm của những quốc gia này về các trường hợp được miễn thông báo tập trung kinh tế, nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm