Thứ ba 10/06/2025 11:56
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Pháp luật quốc tế về tiếp nhận người tị nạn và một số gợi mở cho Việt Nam

Từ đầu thế kỷ XX, dòng người tị nạn đã “bùng nổ” nhiều nơi trên thế giới và có xu hướng gia tăng mạnh mẽ trong những năm qua vì tình trạng xung đột có xu hướng tăng trên thế giới và khu vực. Đối mặt với thực trạng này, hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã thiết lập một khung pháp lý để điều chỉnh vấn đề tị nạn. Do đó, việc nghiên cứu về pháp luật tị nạn là vô cùng cần thiết.

Từ đầu thế kỷ XX, dòng người tị nạn đã “bùng nổ” nhiều nơi trên thế giới và có xu hướng gia tăng mạnh mẽ trong những năm qua vì tình trạng xung đột có xu hướng tăng trên thế giới và khu vực. Đối mặt với thực trạng này, hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã thiết lập một khung pháp lý để điều chỉnh vấn đề tị nạn. Do đó, việc nghiên cứu về pháp luật tị nạn là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, đây không phải là vấn đề đơn giản, có thể ảnh hưởng đến các lợi ích về an ninh, chính trị, xã hội của nước ta vì người tị nạn là một nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương nên được bảo vệ trong các công cụ pháp lý đặc thù. Ở Việt Nam, quyền tị nạn và cung cấp sự bảo vệ cho người tị nạn đã được hiến định qua các bản Hiến pháp nhưng đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thi hành trên thực tế. Nhu cầu thực tiễn trong tương lai đã được dự báo đòi hỏi các nhà lập pháp Việt Nam cần cân nhắc xây dựng một khung pháp lý về tiếp nhận người tị nạn. Vì vậy, nước ta cần nhìn nhận một cách thấu đáo, khách quan, thông qua tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới nhằm đưa ra những chính sách hiệu quả nhất, phù hợp nhất cho Việt Nam.
1. Pháp luật quốc tế về tiếp nhận người tị nạn
Thứ nhất,
Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951 và Nghị định thư về vị thế của người tị nạn năm 1967.
Bước đột phá trong quá trình xây dựng pháp luật quốc tế về tị nạn là cho ra đời Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951. Đây là công ước quốc tế đầu tiên bao gồm các khía cạnh cơ bản nhất của cuộc sống người tị nạn. Công ước công nhận phạm vi quốc tế của các cuộc khủng hoảng người tị nạn và sự cần thiết của hợp tác quốc tế bao gồm cả việc chia sẻ gánh nặng giữa các quốc gia để giải quyết vấn đề này.
Sau đó, Nghị định thư về vị thế của người tị nạn năm 1967 xóa bỏ các giới hạn về thời gian và địa lý của Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951. Nền tảng của Nghị định thư này là nguyên tắc “cấm trục xuất hoặc hồi hương” người tị nạn nêu trong Điều 33. Theo nguyên tắc này, không quốc gia nào được đưa người tị nạn trở lại nơi người đó phải đối mặt với các mối đe dọa nghiêm trọng đến tự do của họ.
Như vậy, Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951 và Nghị định thư về vị thế của người tị nạn năm 1967 đều là những công cụ pháp lý quốc tế mà các quốc gia tự nguyện đồng ý ràng buộc[1].
Thứ hai, pháp luật quốc tế về bảo vệ người tị nạn tại châu Phi.
Công ước điều chỉnh các khía cạnh cụ thể của vấn đề người tị nạn ở châu Phi năm 1969 gồm 15 điều khoản. Công ước quy định nghĩa vụ của người tị nạn là tôn trọng luật pháp, quy định của quốc gia sở tại và cấm họ tham gia vào các hoạt động lật đổ chống lại bất kỳ quốc gia thành viên nào của Liên minh châu Phi[2]. Ngược lại, quốc gia tiếp nhận không được phân biệt đối xử về chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, thành viên của một nhóm xã hội cụ thể hoặc chính kiến chính trị[3].
Ngoài việc ghi nhận khái niệm người tị nạn tương tự tại Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951, Công ước điều chỉnh các khía cạnh cụ thể của vấn đề người tị nạn ở châu Phi năm 1969 có bổ sung là người tị nạn sẽ áp dụng cho người bị buộc phải rời khỏi đất nước của họ do xâm lược bên ngoài, chiếm đóng, sự thống trị của nước ngoài hoặc các sự kiện gây rối trật tự công cộng nghiêm trọng[4]. Văn bản đã thúc giục các quốc gia cấp quyền tị nạn thông qua việc quy định quốc gia thành viên sẽ nỗ lực hết sức tiếp nhận người tị nạn và bảo đảm việc định cư cho những người tị nạn[5]. Đây là một bước đi sâu hơn vào quan điểm luật quốc tế truyền thống vốn coi tị nạn là chủ quyền của quốc gia. Mặc dù quy định này chỉ mang tính khuyến nghị nhưng đã thể hiện được sự tiến bộ trong pháp luật tị nạn quốc tế.
Thứ ba, pháp luật quốc tế về bảo vệ người tị nạn tại châu Âu.
Điều 3 Công ước bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do căn bản năm 1950 (Công ước châu Âu về nhân quyền) quy định: “Không ai bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt vô nhân đạo hoặc hạ nhục”.
Tất cả các quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu (EU) đều bị ràng buộc bởi Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951 và có một khuôn khổ hợp tác khu vực phát triển về các vấn đề tị nạn, di cư gọi là Hệ thống tị nạn chung châu Âu (CEAS). Mục tiêu của Hệ thống tị nạn chung châu Âu là tạo ra cách tiếp cận hài hòa trên toàn Liên minh châu Âu. Chỉ thị số 2013/32/EU về thủ tục tị nạn nhằm bảo đảm cho việc ra quyết định xin tị nạn công bằng hơn, nhanh hơn và chất lượng hơn bằng cách đặt ra các thủ tục chung để cấp (hoặc rút lại) sự bảo hộ quốc tế ở các quốc gia thành viên. Chỉ thị số 2013/33/EU về điều kiện tiếp nhận đưa ra các tiêu chuẩn tối thiểu chung về các điều kiện tiếp nhận nhân đạo dành cho những người xin tị nạn trên khắp Liên minh châu Âu, nó thiết lập các quy tắc liên quan đến nhà ở, thực phẩm, chăm sóc sức khỏe, việc làm và các quy tắc chung chi tiết điều chỉnh các trường hợp hạn chế mà người xin tị nạn có thể bị giam giữ. Chỉ thị số 2011/95/EU về đủ điều kiện tị nạn đưa ra các tiêu chí cho người nộp đơn đủ điều kiện để được hưởng quy chế tị nạn hoặc quy chế bảo vệ bổ sung và quy định các quyền dành cho những người đã được cấp một trong những tư cách đó.
Thứ tư, pháp luật quốc tế về bảo vệ người tị nạn tại châu Mỹ.
Điều XXVII của Tuyên ngôn châu Mỹ về quyền và nghĩa vụ của con người năm 1948[6] và Điều 22 (7) của Công ước châu Mỹ về Nhân quyền năm 1969[7] đã thiết lập quyền xin tị nạn. Cả hai văn bản này đều quy định rằng, mọi người có quyền xin và được tị nạn ở lãnh thổ nước ngoài phù hợp với luật pháp của quốc gia tiếp nhận và các hiệp định quốc tế.
Tại châu lục này hình thành Tuyên bố Cartagena về người tị nạn năm 1984. Năm 1984, một nhóm đại diện chính phủ và các luật gia Mỹ Latinh nổi tiếng đã được triệu tập tại Cartagena, Colombia để thảo luận về sự bảo vệ quốc tế đối với những người tị nạn trong khu vực. Cuộc họp này đã thông qua khái niệm về người tị nạn được sử dụng trên toàn khu vực bao gồm khái niệm của Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951 và cả những người đã bỏ trốn khỏi đất nước của họ bởi vì tính mạng, sự an toàn hoặc tự do của họ đã bị đe dọa bởi bạo lực chung, xâm lược nước ngoài, xung đột nội bộ, vi phạm nghiêm trọng quyền con người. Tuyên bố đòi hỏi các cá nhân phải chứng tỏ rằng họ có nguy cơ bị ngược đãi và phải thể hiện mối liên hệ giữa bản thân họ và nguy cơ bị tổn hại thực sự. Mặc dù, Tuyên bố không ràng buộc về mặt pháp lý đối với các quốc gia nhưng hầu hết các quốc gia châu Mỹ áp dụng khái niệm này như một vấn đề thực tiễn, một số đã kết hợp khái niệm này vào luật pháp quốc gia. Tuyên bố đã được Tổ chức các quốc gia châu Mỹ (OAS), Đại hội đồng Liên Hợp Quốc và Ủy ban điều hành cố vấn của Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn tán thành[8].
Thứ năm, pháp luật quốc tế về bảo vệ người tị nạn tại Trung Đông và châu Á.
Năm 1994, Công ước Ả Rập về Quy định tình trạng người tị nạn ở các quốc gia Ả Rập đã được Liên minh các quốc gia Ả Rập (LAS) thông qua nhưng chưa có hiệu lực vì không được phê chuẩn. Năm 2001, các nước châu Á và châu Phi đã thông qua Nguyên tắc Bangkok về tình trạng và đối xử với người tị nạn. Công ước Ả Rập được đề xuất và Nguyên tắc Bangkok đều sử dụng khái niệm về người tị nạn trong Công ước điều chỉnh các khía cạnh cụ thể của vấn đề người tị nạn ở châu Phi năm 1969. Năm 2012, các quốc gia thành viên của Tổ chức hợp tác Hồi giáo đã thông qua Tuyên bố Ashgabat của Hội nghị Bộ trưởng Quốc tế của Tổ chức Hợp tác Hồi giáo về người tị nạn trong thế giới Hồi giáo tại Turkmenistan.
Tóm lại, hiện nay, pháp luật về tị nạn quốc tế đã cơ bản được hình thành, trong đó, có văn bản mang tính chất toàn cầu, có văn bản mang tính khu vực. Mặc dù, ở mỗi khu vực, mức độ ghi nhận khác nhau nhưng tất cả đều đang thay đổi theo hướng tích cực hơn. Theo thời gian, nhiều công cụ pháp lý ra đời và được các quốc gia thành viên hưởng ứng nhiệt tình hơn, có thiện chí hơn, coi vấn đề tị nạn là một trách nhiệm quốc tế mà các quốc gia cần hợp tác để giải quyết. Cùng với đó là sự bảo vệ tốt hơn, đầy đủ hơn cho người tị nạn cũng được chú trọng. Một khi tham gia vào các công ước, hiệp ước quốc tế, các quốc gia thành viên có trách nhiệm thực hiện sao cho phù hợp với các điều khoản đã cam kết. Nhiều nước đã xây dựng cho hệ thống quốc gia mình những quy định nhằm nội luật hóa các công ước trên cơ sở phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của nước mình.
2. Pháp luật tiếp nhận người tị nạn tại một số quốc gia trên thế giới
Hiện nay, trên thế giới đã có nhiều quốc gia đi đầu trong lĩnh vực tiếp nhận người tị nạn, cũng có những nước đang hoàn thiện hệ thống pháp luật để có khung pháp lý rõ ràng, hiệu quả cho vấn đề toàn cầu này.
Thứ nhất, pháp luật Canada.
Pháp luật Canada thừa nhận có hai loại người tị nạn chung là “người cần được bảo vệ” và “người tị nạn theo công ước”. Tuy nhiên, những người trong các tình huống tương tự nhưng không đủ tiêu chuẩn theo một trong hai nhóm này vẫn có thể đủ điều kiện để được bảo vệ theo “quốc gia hạng tị nạn”. Theo đó, “người tị nạn theo công ước” là những người đáp ứng điều kiện theo Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951[9]; “người cần được bảo vệ” là người đã ở tại Canada và khi trở về quốc gia xuất xứ phải đối mặt với tra tấn, rủi ro cho tính mạng, rủi ro bị đối xử hoặc trừng phạt tàn nhẫn, bất thường khi họ không thể nhận được sự bảo vệ từ Chính phủ của mình. Người đó sẽ phải đối mặt với rủi ro ở tất cả các vùng của đất nước, mặc dù người khác tại quốc gia đó không phải đối mặt với vấn đề này.
“Quốc gia hạng tị nạn” dành cho những người ở bên ngoài Canada và trong các tình huống giống như người tị nạn nhưng không đủ tiêu chuẩn của người tị nạn. Một người được coi là đối tượng của “quốc gia hạng tị nạn” nếu quan chức quản lý nhập cư xác định rằng họ đã, đang và tiếp tục bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi nội chiến, xung đột vũ trang, hoặc vi phạm nhân quyền lớn[10]. Canada đã mở rộng khái niệm, không chỉ bao gồm năm sự ngược đãi như Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951 mà còn bao gồm tất các các vấn đề mang đến rủi ro cho người tị nạn như tra tấn, nội chiến, vi phạm nhân quyền… Ngoài việc quy định các tiêu chuẩn để công nhận người tị nạn, Canada vẫn trao quyền chủ động cho quan chức nhà nước khi họ không đáp ứng các điều kiện theo Công ước.
Canada thiết lập quy trình tị nạn gồm các bước sau: Nộp đơn - Xem xét đơn yêu cầu - Quyết định tình trạng của người yêu cầu - Khiếu nại lên ban khiếu nại người tị nạn - Biện pháp khắc phục bổ sung.
Thứ hai, pháp luật Đức.
Ở Đức, người được hưởng quy chế tị nạn bao gồm: (i) Những người được “quyền tị nạn” theo Điều 16a của Hiến pháp năm 1949 (những người bị đàn áp chính trị). Loại này bao gồm những người bị Nhà nước cho “ra rìa” vì niềm tin chính trị của họ và khiến nhân phẩm của họ bị vi phạm. Những trường hợp khẩn cấp như nghèo đói hoặc nội chiến không cho phép tị nạn trong trường hợp này. (ii) “Người tị nạn theo Công ước” là những người đáp ứng đủ điều kiện theo Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951[11]. Ngược lại, với những người được “quyền tị nạn” theo Điều 16a của Hiến pháp Đức, mối nguy hiểm này không nhất thiết phải đến từ Nhà nước, mà còn có thể đến từ các đảng phái hoặc tổ chức.
Ngoài ra, Đức còn ghi nhận thêm hai trường hợp bảo vệ cho những người không đáp ứng điều kiện ở trên. Một là, “bảo vệ bổ sung” được cấp cho những người không được bảo vệ theo Điều 16a hoặc Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951, bao gồm những người bị tổn hại nghiêm trọng như bị áp đặt hoặc thi hành án tử hình; tra tấn, đối xử, trừng phạt vô nhân đạo hoặc hạ nhục; một mối đe dọa nghiêm trọng ảnh hưởng đến cuộc sống do hậu quả của bạo lực bừa bãi trong khuôn khổ xung đột vũ trang quốc tế hoặc trong nước[12]. Hai là, “cấm trục xuất” là phép thử cuối cùng cho người đang tìm kiếm sự bảo vệ không được “quyền tị nạn”, “người tị nạn theo Công ước” và “bảo vệ bổ sung” khi việc quay trở lại quốc gia xuất xứ vi phạm Công ước châu Âu về bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do cơ bản; có một mối nguy hiểm cụ thể đáng kể đến tính mạng hoặc tự do[13].
Quy trình xin tị nạn ở Đức bao gồm các bước sau: Nộp đơn xin tị nạn và đăng ký - Kiểm tra khả năng chấp nhận và thẩm quyền (thủ tục Dublin) - Phiên điều trần - Quyết định về đơn xin tị nạn.
Thứ ba, pháp luật Hàn Quốc.
Điều 2 Luật Tị nạn Hàn Quốc năm 2016 quy định khái niệm người tị nạn tương tự Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951. Ngoài ra, pháp luật nước này có ghi nhận thêm, khi không đáp ứng các điều kiện tị nạn theo Công ước nhưng bị xâm phạm đáng kể về tính mạng hoặc quyền tự do thân thể do bị đối xử vô nhân đạo như tra tấn, trừng phạt hoặc các trường hợp khác thì có thể được Bộ trưởng Bộ Tư pháp cấp giấy phép cư trú gọi là “người đã có giấy phép xuất cảnh nhân đạo”[14]. Hàn Quốc quy định cấm tiết lộ thông tin cá nhân, ảnh,… trừ trường hợp ngoại lệ khi được sự đồng ý của người xin tị nạn. Không được thông tin về đơn xin quy chế tị nạn cho quốc gia xuất xứ[15]. Điều 47 còn quy định về hình phạt khi vi phạm (phạt tù lao động đến một năm hoặc phạt tiền tới mười triệu won).
Hàn Quốc dành một chương riêng biệt để quy định về những hỗ trợ cho người xin tị nạn từ Điều 40 đến Điều 44 trong Luật Tị nạn năm 2016. Theo đó, có các hỗ trợ như chi phí sinh hoạt, cơ sở cư trú, y tế, giáo dục[16] và sau sáu tháng trôi qua kể từ ngày nộp đơn xin tị nạn, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể cấp phép lao động cho người xin quy chế tị nạn. Pháp luật nước này quy định một số đối tượng sẽ bị hạn chế khi tiếp cận các dịch vụ này như một người đang trong quá trình xét xử hành chính hoặc kiện tụng hành chính chống lại quyết định không công nhận người tị nạn, trường hợp một người đã bị thu hồi quy chế tị nạn nộp đơn xin lại mà không có bất kỳ thay đổi đáng kể nào về hoàn cảnh…[17].
Quy trình xin tị nạn tại Hàn Quốc: Nộp đơn xin quy chế tị nạn - Phỏng vấn điều tra - Quyết định công nhận hoặc không công nhận - Khiếu nại lên Bộ trưởng Tư pháp.
Tóm lại, sau khi nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật về tị nạn quốc tế và các quốc gia Canada, Đức, Hàn Quốc, tác giả rút ra một số kết luận như sau:
- Pháp luật các quốc gia đã có hệ thống pháp luật tị nạn tương đối hoàn thiện thông qua các công ước quốc tế trên toàn cầu và khu vực nhằm bảo vệ những người tị nạn.
- Mỗi hệ thống pháp luật có sự khác biệt nhưng các quốc gia này đều công nhận quyền tị nạn và cung cấp sự bảo vệ cho người tị nạn.
- Các quốc gia trên đều có luật hoặc một số đạo luật để ghi nhận các vấn đề cơ bản về tị nạn.
- Luật pháp các quốc gia đều tồn tại các quy định nhằm hỗ trợ ban đầu cho người xin tị nạn để họ theo đuổi quá trình nộp đơn xin quy chế tị nạn của mình.
3. Một số gợi mở cho Việt Nam khi xây dựng pháp luật tiếp nhận người tị nạn
Bước đầu tiên trong công cuộc xây dựng khung pháp lý về tiếp nhận người tị nạn tại Việt Nam là gia nhập Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951 và Nghị định thư về vị thế của người tị nạn năm 1967. Cùng với việc gia nhập Công ước, nước ta cũng nhanh chóng ban hành, sửa đổi các luật liên quan nhằm xây dựng khung pháp lý về tị nạn tại Việt Nam. Từ những phân tích tại các phần trên, tác giả có một số đề xuất cho cho việc xây dựng pháp luật tiếp nhận người tị nạn ở Việt Nam như sau:
3.1. Về hình thức văn bản
Việt Nam có thể xây dựng một văn bản riêng dưới hình thức là một đạo luật do Quốc hội ban hành. Bởi lẽ, vấn đề tiếp nhận tị nạn là một vấn đề mới với Việt Nam cần có một đội ngũ nghiên cứu, soạn thảo được đào tạo về chuyên môn. Hơn nữa, có rất nhiều khía cạnh cần được điều chỉnh với vấn đề mới này mà không thể chỉ sửa đổi, bổ sung một vài quy định. Việc ban hành một đạo luật mới giúp cơ quan thực thi dễ nắm bắt và vận hành hệ thống hơn.
3.2. Về nội dung
Luật tiếp nhận người tị nạn cần phải bao gồm các nội dung tối thiểu như sau:
Một là, làm rõ được khái niệm như thế nào là người tị nạn, loại trừ một số đối tượng ra khỏi khung bảo vệ của quốc gia và ngừng cung cấp sự bảo vệ khi thỏa mãn một số điều kiện nhất định.
Hai là, điều khoản về hợp tác với UNHCR. Với điều khoản này tác giả có một số đề xuất như sau: (i) Cơ quan có thẩm quyền Việt Nam có trách nhiệm trong việc cung cấp các thông tin về người tị nạn cho UNHCR; (ii) UNHCR được phép tham gia vào quá trình công nhận người tị nạn, được gặp gỡ, đại diện cho người tị nạn; (iii) Việt Nam hợp tác với UNHCR xây dựng các chương trình hỗ trợ cho người tị nạn.
Ba là, pháp luật Việt Nam phải có cơ chế đánh giá lại với các trường hợp nhận được quyết định từ chối và bị ra thông báo trục xuất. Ngoài ra, có thể quy định một số trường hợp ngoại lệ như có căn cứ hợp lý cho rằng cá nhân đó là mối nguy hiểm đối với an ninh nước ta.
Bốn là, luật tị nạn Việt Nam cần đưa vào các điều khoản nhằm bảo vệ tính bí mật thông tin liên quan đến người tị nạn như dấu vân tay, hình ảnh và dữ liệu sinh trắc học. Quy định tất cả các cơ quan, cán bộ, công chức, nhân viên được tiếp cận hồ sơ tị nạn phải bảo mật những thông tin này và đưa ra chế tài khi có vi phạm.
Năm là, quy định các điều khoản trong luật để hỗ trợ những người xin tị nạn khi họ không thể tự đáp ứng nhu cầu sinh hoạt một cách độc lập. Bao gồm tất cả các hỗ trợ cần thiết như thực phẩm, nơi ở, các cơ sở vệ sinh và y tế cơ bản.
Sáu là, thủ tục xác định tình trạng tị nạn cần bảo đảm các yếu tố cơ bản, tối thiểu của một quy trình tị nạn công bằng, hiệu quả. Tác giả có một số đề xuất sau: (i) Luật nên thành lập một cơ quan chuyên môn duy nhất chịu trách nhiệm xem xét đơn xin quy chế tị nạn; (ii) Bảo đảm duy trì đội ngũ nhân lực đủ mạnh, có chuyên môn, trình độ, được đào tạo kỹ lưỡng; (iii) Nên quy định một trọng tài, Tòa án hoặc cơ quan chuyên môn độc lập khác chịu trách nhiệm đánh giá các kháng nghị, khiếu nại; (iv) Cần tổ chức một phiên gặp mặt mà ở đó người xin tị nạn có quyền được bày tỏ ý kiến của mình với cơ quan kiểm tra và ngược lại, cơ quan có thẩm quyền có thể phỏng vấn người xin tị nạn để làm sáng tỏ các vấn đề còn mâu thuẫn; (v) Quyết định công nhận hoặc không công nhận cần được trình bày bằng văn bản và được tống đạt đến những người xin tị nạn, đại diện của họ một cách kịp thời và nếu không công nhận tị nạn phải nêu rõ lý do vì sao họ không được chấp nhận; (vi) Cần quy định một khoảng thời gian hợp lý để những người nhận được quyết định tiêu cực có thể thực hiện việc khiếu nại, kháng cáo và cho phép họ ở lại lãnh thổ cho đến khi có quyết định cuối cùng về yêu cầu.
Bảy là, khuyến khích ghi nhận rõ những đối tượng được tị nạn theo diện gia đình bao gồm các đối tượng là vợ hoặc chồng đã kết hôn hợp pháp; con chưa thành niên; trẻ chưa thành niên có người đại diện, giám hộ và cha mẹ già yếu.
3.3. Về thực thi
Để pháp luật tiếp nhận người tị nạn được thi hành hiệu quả, tác giả đề xuất một số kiến nghị như sau:
- Cần có sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương về vấn đề phân phối người tị nạn nhằm giảm áp lực cho hệ thống trung ương.
- Nên thành lập một cơ quan chuyên môn để thực hiện quy trình tị nạn và là cơ quan trực thuộc Cục Quản lý xuất nhập cảnh của Bộ Công an.
- Xây dựng cơ chế khiếu nại theo thủ tục hành chính cấp cao hơn. Theo đó, cơ quan khiếu nại có thể là Cục trưởng Cục quản lý xuất nhập cảnh.
- Cần xây dựng các chương trình hiệu quả và vận động sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, tư nhân chung tay vào quá trình này.
- Các chương trình hỗ trợ người tị nạn được xây dựng dựa theo từng nhóm chủng tộc, ngôn ngữ, phong tục tập quán để thúc đẩy quá trình hòa nhập một cách nhanh chóng.
- Nước ta nên cùng các nước trong khu vực xây dựng công cụ tiếp nhận tị nạn chung như châu Âu nhằm giải quyết vấn đề tị nạn ở quy mô lớn tránh tình trạng khủng hoảng ồ ạt.
- Nước ta có thể ký kết các thỏa thuận “nước thứ ba an toàn”. Các bên tham gia thỏa thuận cho phép người xin tị nạn có cơ hội được trình bày lý do họ từ chối sự bảo vệ của quốc gia thành viên còn lại.
Như vậy, cùng với sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu, vấn đề quyền con người đang ngày càng được quan tâm. Mối quan hệ giữa nhân quyền và dòng người tị nạn là mối quan hệ nhân quả tất nhiên. Vi phạm nhân quyền là một nguyên nhân dẫn đến làn sóng người tị nạn diễn ra ồ ạt và trở thành cơn khủng hoảng toàn cầu. Để giải quyết vấn đề toàn cầu này cần có sự tổng hòa của các biện pháp bao gồm việc ngăn chặn và các biện pháp khác. Quyền tị nạn hiện nay chưa được quốc tế nâng lên thành một quyền con người mà vẫn tồn tại yếu tố chủ quyền quốc gia. Vấn đề tị nạn là một vấn đề thời sự toàn cầu, việc tiếp nhận tị nạn gây nên những khó khăn, thách thức đối với quốc gia tiếp nhận về kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh. Làn sóng người tị nạn dâng trào mạnh mẽ từ sau chiến tranh thế giới hai, đặt ra yêu cầu phải tìm giải pháp nhằm hạn chế và tiến đến loại bỏ cuộc khủng hoảng này. Sau khi tìm hiểu, nghiên cứu pháp luật tị nạn tại Việt Nam, tác giả thấy rằng, Việt Nam đã tồn tại vấn đề tị nạn và đã được giải quyết thông qua sự hợp tác với UNHCR. Nước ta nên xây dựng một đạo luật về tiếp nhận người tị nạn bao gồm các nội dung cơ bản như: (i) Tính đủ điều kiện để được bảo vệ người tị nạn; (ii) Điều khoản về hợp tác với UNHCR; (iii) Cấm trục xuất hoặc hồi hương người tị nạn về nơi họ phải đối mặt với sự nguy hiểm; (iv) Bảo mật thông tin cá nhân người tị nạn; (v) Hỗ trợ ban đầu cho người xin tị nạn; (vi) Thủ tục xác định tình trạng tị nạn; (vii) Bảo đảm quyền đoàn tụ gia đình cho người tị nạn; (viii) Quyền được thường trú và quốc tịch.

ThS. Nguyễn Thanh Quyên
Khoa Luật Hành chính - Nhà nước,
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh


[1] Tính đến ngày 20/01/2020, có 146 bên tham gia Công ước và 147 bên tham gia Nghị định thư.

[2] Điều 3 Công ước điều chỉnh các khía cạnh cụ thể của vấn đề người tị nạn ở châu Phi năm 1969.

[3] Điều 4 Công ước điều chỉnh các khía cạnh cụ thể của vấn đề người tị nạn ở châu Phi năm 1969.

[4] Điều V liên quan đến vấn đề hồi hương tự nguyện, Điều VI tương tự như Điều 28 của Công ước về vị thế của người tị nạn năm 1951 quy định các quốc gia ký kết cung cấp cho người tị nạn giấy thông hành, Điều VII và điều VIII liên quan đến sự hợp tác giữa Liên minh châu phi và Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn (UNHCR), bảy điều cuối cùng là các điều khoản về kỹ thuật.

[5] Điều 2 Công ước điều chỉnh các khía cạnh cụ thể của vấn đề người tị nạn ở châu Phi năm 1969.

[6] Điều XXVII Tuyên ngôn châu Mỹ về quyền và nghĩa vụ của con người năm 1948 quy định: “Mọi người có quyền, trong trường hợp bị truy đuổi không phải do tội phạm thông thường, xin và được tị nạn trên lãnh thổ nước ngoài, phù hợp với luật pháp của mỗi quốc gia và các hiệp định quốc tế”.

[7] Điều 22 (7) Công ước châu Mỹ về Nhân quyền năm 1969 quy định: “Mọi người có quyền xin và được tị nạn ở nước ngoài lãnh thổ, phù hợp với luật pháp của Nhà nước và quốc tế trong trường hợp anh ta đang bị truy đuổi vì các tội chính trị hoặc liên quan phổ biến tội ác”.

[8] UNHCR (2001), REFUGEE PROTECTION: A Guide to International Refugee Law, Published by the Inter-Parliamentary Union with the Office of the United Nations High Commissioner for Refugees, p. 13 - 15.

[9] Điều 96 Luật Bảo vệ người tị nạn và nhập cư Canada năm 2001.

[10] Điều 147 Quy định Bảo vệ người tị nạn và nhập cư Canada năm 2002.

[11] Điều 3 Luật Tị nạn Đức năm 1992.

[12] Khoản 1 Điều 4 Luật Tị nạn Đức năm 1992.

[13] Điều 60 (5), Điều 60 (7) Luật Cư trú Đức năm 2004.

[14] Điều 2.1 Luật Tị nạn Hàn Quốc năm 2016.

[15] Điều 17 Luật Tị nạn Hàn Quốc năm 2016.

[16] Điều 43 Luật Tị nạn Hàn Quốc năm 2016.

[17] Điều 44 Luật Tị nạn Hàn Quốc năm 2016.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Hiện nay, các tội phạm sử dụng công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội diễn ra ngày càng phổ biến. Một trong những công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội, nguy hiểm, gây ra thiệt hại lớn cho xã hội được các tội phạm sử dụng nhiều nhất, chính là sử dụng mã độc tống tiền (Ransomware). Vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật để kịp thời phòng, chống những tác hại của Ransomware là thực sự cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Bài viết nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật của Hoa Kỳ và Trung Quốc, từ đó, kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Pháp luật về hòa giải thương mại của Việt Nam và Ấn Độ - Góc nhìn so sánh và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Việt Nam và Ấn Độ đều có khung pháp lý điều chỉnh hoạt động hòa giải thương mại, nhưng có sự khác biệt đáng kể về cơ chế vận hành và thực thi. Bài viết sử dụng phương pháp so sánh luật học để phân tích và đối chiếu quy định pháp luật giữa hai quốc gia, đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp luật về hòa giải thương mại tại Việt Nam.

Vai trò của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp và giá trị tham khảo cho Việt Nam

Nội các Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong quá trình lập pháp với quyền đề xuất hầu hết các dự thảo luật trình lên Quốc hội. Bài viết nghiên cứu, phân tích vị trí, vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp, từ sáng kiến đến soạn thảo, đánh giá và thông qua luật. Đồng thời, so sánh với quy trình lập pháp tại Việt Nam, chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt quan trọng. Từ đó, đề xuất các giá trị mà Việt Nam có thể tham khảo nhằm nâng cao vị trí và vai trò của Chính phủ trong quá trình xây dựng pháp luật.

Hình phạt tiền - Dưới góc nhìn so sánh pháp luật hình sự Việt Nam với Liên bang Úc và kinh nghiệm cho Việt Nam

Hình phạt tiền ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong hệ thống hình phạt của nhiều quốc gia, kể cả Việt Nam và Liên bang Úc, như một biện pháp hiệu quả để xử lý các hành vi phạm tội, đặc biệt là các tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm do pháp nhân thực hiện. Bài viết phân tích quy định pháp luật hình sự về hình phạt tiền của Việt Nam và Liên bang Úc, làm rõ sự khác biệt về đối tượng pháp nhân chịu trách nhiệm, phương pháp xác định mức phạt, các yếu tố Tòa án cân nhắc và cơ chế thi hành; từ đó, rút ra một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo đối với Việt Nam.

Kết đôi dân sự theo pháp luật của Pháp và gợi mở quy chế pháp lý cho cặp đôi không muốn kết hôn tại Việt Nam

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã ghi nhận và thiết lập quy định liên quan đến vấn đề chung sống như vợ chồng, bởi đây là hiện tượng khách quan và phổ biến trong xã hội. Bộ luật Dân sự Pháp đã thiết kế chế định kết đôi dân sự để điều chỉnh mối quan hệ giữa các cặp đôi chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn. Bài viết phân tích chế định kết đôi dân sự ở Pháp, thực trạng chung sống như vợ chồng ở Việt Nam và gợi mở về một số thay đổi của chính sách, pháp luật hôn nhân và gia đình tại Việt Nam.
Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh là một cơ chế pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của cổ đông và công ty. Hình thức kiện này đã hình thành từ rất lâu tại Anh và được xây dựng dựa trên nền tảng thông luật. Ở Việt Nam, kiện phái sinh mới chỉ được ghi nhận thông qua các quy định pháp luật trong thời gian gần đây. Bài viết phân tích các quy định pháp lý về hình thức kiện phái sinh tại Vương quốc Anh, đánh giá những ưu điểm, hạn chế của cơ chế này, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện cơ chế kiện phái sinh, phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam.

Xây dựng mô hình Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ tại Việt Nam - Kinh nghiệm từ Nhật Bản và Vương quốc Anh

Bài viết so sánh mô hình Tòa Thượng thẩm sở hữu trí tuệ chuyên sâu Nhật Bản và hệ thống Tòa án sở hữu trí tuệ xét xử linh hoạt ở Anh, từ đó, rút ra khuyến nghị cho Việt Nam, đề xuất thành lập Tòa án chuyên biệt về sở hữu trí tuệ tại các trung tâm kinh tế lớn, kết hợp mô hình xét xử phù hợp để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả.

Thuế carbon và cơ chế điều chỉnh biên giới carbon - Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý khung pháp lý cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada trong thiết kế và thực thi chính sách định giá carbon, đồng thời, chỉ ra những khoảng trống của pháp luật Việt Nam, đặc biệt, về Hệ thống đo lường, giám sát phát thải và Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon. Trên cơ sở đó, đề xuất lộ trình xây dựng luật thuế carbon, tích hợp Hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định, Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon nội địa và quy trình quản lý thuế minh bạch, giúp Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, bảo vệ doanh nghiệp và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ - Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu về trí tuệ nhân tạo (AI), sự cần thiết ứng dụng AI trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) nhìn từ kinh nghiệm của một số quốc gia, khu vực dẫn đầu trong việc ứng dụng AI vào bảo hộ quyền SHTT như Hoa Kỳ, châu Âu, Trung Quốc… từ đó, nghiên cứu đưa ra một số gợi mở cho việc ứng dụng AI trong việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến việc ứng dụng AI vào hoạt động bảo hộ quyền SHTT.

Chuẩn hợp đồng (Quasi contract) - Cơ sở pháp lý và đề xuất áp dụng tại Việt Nam

Bài viết phân tích khái niệm chuẩn hợp đồng (Quasi contract) trong hệ thống pháp luật Common Law và sự tương đồng với một số quy định trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, đồng thời đề xuất việc nghiên cứu lựa chọn có chọn lọc và áp dụng Quasi contract vào hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp và bảo vệ quyền lợi các bên.

Bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo - Nhìn từ thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết phân tích chính sách bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư liên quan đến trí tuệ nhân tạo (AI) ở một số quốc gia trên thế giới, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam về vấn đề này.

Cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba tại Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho Việt Nam

Bài viết phân tích cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba (cơ chế Safe Harbor) trong luật pháp Hoa Kỳ và Việt Nam, từ đó, đưa ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật liên quan đến các trường hợp miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet.

Xây dựng luật thuế các-bon - Kinh nghiệm Singapore và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Thuế các-bon là một công cụ tài chính quan trọng nhằm giảm phát thải khí nhà kính bằng cách định giá lượng khí CO₂ thải ra môi trường. Việc áp dụng thuế này không chỉ giúp kiểm soát ô nhiễm mà còn tạo nguồn thu để đầu tư vào các giải pháp phát triển bền vững. Trong bối cảnh đã có nhiều quốc gia xây dựng, ban hành và áp dụng thuế các-bon, Việt Nam cần cân nhắc xây dựng khung pháp lý phù hợp cho việc áp dụng thuế các-bon trong nước. Singapore là một trong những quốc gia đi đầu ở Đông Nam Á trong xây dựng, áp dụng pháp luật về thuế các-bon với nhiều điểm nổi bật mà Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc, phù hợp với thực tế của Việt nam. Xuất phát từ đó, bài viết làm rõ một số kinh nghiệm nổi bật của Singapore về xây dựng Luật thuế các-bon, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích quy định về xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 ngày 23/10/2024 của Nghị viện và Hội đồng châu Âu về việc cải thiện điều kiện làm việc đối với công việc nền tảng (Chỉ thị (EU) 2024/2831) và thực trạng xác định tình trạng lao động tại Việt Nam hiện nay, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Miễn trừ thông báo tập trung kinh tế - Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tập trung kinh tế là quá trình giảm số lượng doanh nghiệp độc lập trên thị trường thông qua sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh nhằm mở rộng quy mô và nâng cao khả năng cạnh tranh. Hành vi này giúp tối ưu nguồn lực nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ hạn chế cạnh tranh, dẫn đến độc quyền, ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường và người tiêu dùng. Pháp luật cạnh tranh của Mỹ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản kiểm soát tập trung kinh tế qua quy định về thông báo giao dịch và các trường hợp miễn trừ thông báo đối với hành vi tập trung kinh tế ít tác động đến thị trường. Từ kinh nghiệm của những quốc gia này về các trường hợp được miễn thông báo tập trung kinh tế, nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm