Thứ bảy 31/05/2025 10:51
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Cần bổ sung đối tượng được xét miễn nghĩa vụ thi hành án phần án phí

Quy định về xét miễn nghĩa vụ thi hành án dân sự cho người phải thi hành án đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tổ chức thi hành án, đã góp phần giải quyết tình trạng án tồn đọng, đồng thời, thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người phải thi hành án.

1. Chính sách miễn án phí đối với người khuyết tật, người cao tuổi trong giải quyết các vụ án dân sự
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án (Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14) có quy định mới là miễn nghĩa vụ phải chịu án phí, lệ phí đối với người cao tuổi, người khuyết tật.
So với Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 (gọi tắt Pháp lệnh số 10) của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án thì Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đã bổ sung đối tượng được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí đối với một số đối tượng là người người cao tuổi và người khuyết tật (theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14).
Việc bổ sung quy định miễn án phí đối với đối tượng là: Người cao tuổi, người khuyết tật vừa thể hiện tính nhân văn của pháp luật nước ta, vừa thể hiện chính sách hỗ trợ, tương trợ của Đảng và Nhà nước đối với người cao tuổi, người khuyết tật. Đồng thời, quy định này nhằm bảo đảm tính thống nhất trong các quy định của pháp luật giữa chính sách miễn án phí và chính sách mang tính chất đặc thù các luật chuyên ngành khác như: Luật Người cao tuổi năm 2009, Luật Người khuyết tật năm 2010. Theo đó, chính sách miễn, tạm ứng phí và án phí đối với người khuyết tật, người cao tuổi được thực hiện với thủ tục và điều kiện rất đơn giản, chỉ cần có đơn xin miễn tạm ứng án phí hoặc án phí là được Tòa án chấp nhận cho miễn.
2. Quy định về miễn nghĩa vụ thi hành án đối với phần án phí
Quy định về xét miễn nghĩa vụ thi hành án dân sự cho người phải thi hành án đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tổ chức thi hành án, đã góp phần giải quyết tình trạng án tồn đọng, đồng thời, thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người phải thi hành án.
Khoản 1 Điều 61 Luật Thi hành án dân sự và Thông tư liên tịch số 12/2015/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/9/2015 của Bộ Tư Pháp, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước quy định: Người phải thi hành án được xét miễn nghĩa vụ thi hành án nói chung và nghĩa vụ thi hành án đối với phần án phí nói riêng khi có đủ các điều kiện sau đây:
“a) Không có tài sản hoặc có tài sản nhưng tài sản đó theo quy định của pháp luật không được xử lý để thi hành án hoặc không có thu nhập hoặc có thu nhập chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án và người mà họ có trách nhiệm nuôi dưỡng;
b) Hết thời hạn 05 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước có giá trị dưới 2.000.000 đồng hoặc hết thời hạn 10 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 5.000.000 đồng”.
Như vậy, điều kiện để các đối tượng là người phải thi hành án được miễn thi hành án đối với phần án phí gồm hai điều kiện là:
(i) Điều kiện về kinh tế (tài sản, khả năng thi hành án) của người phải thi hành án không có khả năng, điều kiện thi hành án…;
(ii) Thời hạn thi hành án kể từ ngày ra quyết định thi hành án đến ngày được đề nghị xét miễn nghĩa vụ thi hành án.
3. Xung đột pháp luật giữa quy định về miễn án phí và xét miễn nghĩa vụ thi hành án đối với phần án phí đối với người cao tuổi và người khuyết tật
So sánh về điều kiện áp dụng miễn án phí và điều kiện xét miễn nghĩa vụ thi hành án phần án phí tại hai giai đoạn là hoàn toàn khác nhau. Ở giai đoạn thi hành án thì điều kiện để xét miễn nghĩa vụ thi hành án đối với người khuyết tật, người cao tuổi có quy định khắc khe hơn và xung đột với chính sách đối với người khuyết tật, người cao tuổi nói chung và chính sách miễn án phí nói riêng. Bởi vì, theo quy định của Luật Người cao tuổi năm 2009, Luật Người khuyết tật năm 2010 thì họ đều được miễn một phần hoặc toàn bộ các khoản đóng góp xã hội. Ngược lại, họ còn được hưởng trợ cấp xã hội đối với những người bị mất sức lao động theo một tỷ lệ nhất định nào đó. Thực tiễn nghiên cứu cho thấy, khi áp dụng quy định về miễn nghĩa vụ thi hành án đối với phần án phí cho người phải thi hành án là người cao tuổi và người khuyết tật còn một số tồn tại, bất cập sau:
Trường hợp thứ nhất: Theo Bản án dân sự số 75/2021/DS-ST ngày 17/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T đã có hiệu lực pháp luật thì ông Nguyễn Văn T phải có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Văn H số tiền là 80.000.000 đồng và ông Nguyễn Văn T phải chịu 4.000.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định. Đến tháng 12/2021, ông T bị tai nạn giao thông và tỷ lệ mất sức lao động 61% theo giấy giám định của cơ quan chức năng; ông T được chính quyền địa phương xác định là người khuyết tật theo dạng khuyết tật vận động và được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng theo quy định của pháp luật. Do bị tai nạn giao thông nên ông T đã nộp đơn xin Chi cục Thi hành án dân sự xét miễn nghĩa vụ thi hành đối với khoản án phí nhưng không được chấp nhận vì không đủ điều kiện xét theo quy định.
Nhận xét: Từ quy định trên cho thấy nếu đương sự là người khuyết tật tại thời điểm thực hiện thủ tục tố tụng tại Tòa án và có đơn xin miễn án phí thì họ đương nhiên được miễn, không cần các điều kiện về kinh tế và thời gian thi hành án. Trường hợp, nếu người phải thi hành án là người khuyết tật trong giai đoạn thi hành án thì họ chỉ được miễn thi hành án nghĩa vụ án phí khi đủ các điều kiện theo khoản 1 Điều 61 Luật Thi hành án dân sự. Việc không xét miễn nghĩa vụ thi hành án đối với phần án phí của ông T là điều bất hợp lý vì ông T đã mất sức lao động 61% thì ông T đương nhiên được hưởng chính sách trợ cấp xã hội và các chính sách khác theo quy định của pháp luật.
Trường hợp thứ hai: Theo Bản án dân sự số 136/2021/DS-ST ngày 23/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh C đã có hiệu lực pháp luật, bà Trần Thị B có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Văn P số tiền là 40.000.000 đồng và bà B phải chịu 2.000.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. Tại thời điểm thực hiện các thủ tục tố tụng bà B là người cao tuổi theo Luật Người cao tuổi nhưng do thiếu hiểu biết pháp luật và không được thẩm phán giải thích rõ quyền được đề nghị miễn án phí của người cao tuổi nên bà B không làm đơn đề nghị miễn án phí. Trong giai đoạn thi hành án, bà B đã nộp đơn đề nghị xét miễn nghĩa vụ thi hành án đối với phần án phí mà bà B phải nộp nhưng không được chấp nhận do không đủ điều kiện.
Nhận xét: Cùng là đối tượng người cao tuổi, cùng có đơn yêu cầu miễn án phí và miễn nghĩa vụ thi hành án phần án phí nhưng trong giai đoạn tố tụng tại Tòa án thì đương sự sẽ đương nhiên được miễn, còn trong giai đoạn thi hành án thì không được miễn do không đảm bảo các điều kiện về kinh tế và thời hạn thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 61 Luật Thi hành án dân sự.
Trường hợp thứ ba: Theo bản án số 80/2021/DS-ST ngày 23/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh K đã có hiệu lực pháp luật thì ông Cao Văn T có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị M số tiền là 60.000.000 đồng và ông T phải chịu 3.000.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. Tại thời điểm ban hành bản án sơ thẩm thì ông T được 59 năm, 11 tháng tuổi; chưa được 60 tuổi để được miễn án phí theo quy định. Sau khi bản án có hiệu lực thì ông T vừa tròn 60 tuổi và ông T đã nộp đơn yêu cầu xét miễn nghĩa vụ thi hành án phí nhưng không được chấp nhận vì không đủ điều kiện.
Nhận xét: Ông T có ý thức chấp hành phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm nên không thực hiện quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm. Trường hợp này, nếu ông T thực hiện kháng cáo bản án sơ thẩm thì đến giai đoạn phúc thẩm ông T hoàn toàn được miễn án phí vì đến thời điểm đó ông T đã là người cao tuổi. Nên việc không miễn án phí cho ông T trong trường hợp này là bất cập, không khuyến khích ông T chấp hành phán quyết của cấp sơ thẩm.
4. Kiến nghị, đề xuất
Trước hết, cần khẳng định rằng, việc miễn án phí đối với người cao tuổi và người khuyết tật theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 là quy định rất tiến bộ, mang đầy tính nhân văn của hệ thống pháp luật của nước ta. Quy định này còn thể hiện chính sách hỗ trợ, tương trợ; truyền thống tương thân, tương ái của đất nước và con người Việt Nam. Trong các quy định của Luật Người cao tuổi và Luật Người khuyết tật đều có quy định miễn toàn bộ hoặc một phần nghĩa vụ đóng góp cho xã hội; cũng như quy định về các điều kiện chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi và người khuyết tật. Đặc biệt, là các quy định thể hiện có chính sách trợ cấp cho những đối tượng này nhằm bảo đảm cuộc sống của họ. Do đó, hệ thống pháp luật đã bổ sung, trao cho người cao tuổi và người khuyết tật một đặc quyền là “được miễn án phí” (nghĩa vụ đối với nhà nước) thông qua các quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.
Trong khi đó, các quy định về xét miễn nghĩa vụ thi hành án đối với phần án phí được quy định trong Luật Thi hành án dân sự đang trong thời gian thực hiện Pháp lệnh số 10 về án phí, lệ phí Tòa án trước thời điểm Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 có hiệu lực pháp luật đến nay chưa được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14. Do đó, quy định về xét miễn nghĩa vụ thi hành án đối với phần án phí đã lỗi thời, chưa cập nhật đúng chính sách của Đảng và Nhà nước đối với người cao tuổi và người khuyết tật. Chính vì vậy, trong thời gian tới cần bổ sung đối tượng người thi hành án là người cao tuổi, người khuyết tật; thay đổi điều kiện xét miễn nghĩa vụ thi hành án đối với phần án phí trong việc xét miễn nghĩa vụ thi hành án đối với người phải thi hành án là người cao tuổi và người khuyết tật theo hướng áp dụng các quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14./.

ThS. Lê Thị Hồng Thắm
Khoa Sư phạm và Xã hội Nhân văn, Trường Đại học Kiên Giang
Huỳnh Minh Khánh
Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Một số giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại tỉnh Quảng Trị hiện nay

Một số giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại tỉnh Quảng Trị hiện nay

Quảng Trị là một tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung bộ, là địa phương chịu hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh và thiên tai khắc nghiệt, là địa bàn sinh sống của các dân tộc thiểu số Bru - Vân Kiều, Tà Ôi. Quảng Trị có hơn 183.000 trẻ em dưới 16 tuổi (chiếm 30% dân số), có trên 20.000 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, trong đó, có khoảng 34.000 trẻ em sống ở vùng miền núi, dân tộc thiểu số .

Một số kết quả nổi bật trong công tác hòa giải ở cơ sở 06 tháng đầu năm 2023 trên địa bàn thành phố Hà Nội

Trong 06 tháng đầu năm 2023, toàn thành phố Hà Nội đã hòa giải thành công 1.334/1.544 vụ việc, đạt tỷ lệ 86,4%, đáp ứng nhu cầu công tác hòa giải ở cơ sở, nhờ đó góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại các địa bàn dân cư.

Nâng cao hiệu quả thực hiện Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030” từ thực tiễn Hà Nội

Thực hiện Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030” (Đề án 06), ngày 17/02/2022, Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội đã ban hành Kế hoạch số 54/KH-UBND tổ chức triển khai thực hiện trên toàn Thành phố

Hiệu quả hoạt động và phối hợp trong công tác trợ giúp pháp lý tại tỉnh Tây Ninh

Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 được thông qua với nhiều nội dung mới nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý. Xác định được tầm quan trọng đó, ngay từ khi Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 có hiệu lực

Thực trạng nguồn lực thực hiện trợ giúp pháp lý tại tỉnh Đồng Tháp

Triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, trong những năm qua, Sở Tư pháp tỉnh Đồng Tháp đã tổ chức triển khai có hiệu quả các quy định pháp luật về trợ giúp pháp lý, trong đó tập trung nguồn lực thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý,...

Kết quả 05 năm thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 trên địa bàn tỉnh Điện Biên

Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 ra đời, khắc phục triệt để những vấn đề tồn tại trong công tác trợ giúp pháp lý, tạo bước đột phá trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý, đánh dấu mốc quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế công tác trợ giúp pháp lý.

Vị trí, vai trò của trợ giúp viên pháp lý trên địa bàn Thành phố Hà Nội - Thực trạng và giải pháp

Là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa của cả nước, dân số của Thành phố Hà Nội cao thứ hai trong cả nước (khoảng 8,3 triệu người) với nhiều thành phần dân cư, lao động từ các địa phương khác tập trung về.

Một số kết quả nổi bật công tác tư pháp 06 tháng đầu năm trên địa bàn Thành phố Hà Nội

Năm 2022, Thành phố Hà Nội xây dựng chủ đề công tác: “Kỷ cương, trách nhiệm, hành động, sáng tạo, phát triển”. Triển khai thực hiện chủ đề công tác trên, trong 06 tháng đầu năm Ngành Tư pháp Thủ đô đã triển khai thống nhất, đồng bộ trên các lĩnh vực công tác và cơ bản hoàn thành những nhiệm vụ đã đề ra, cụ thể như sau:

Bấp cập trong việc thực hiện quy định tại khoản 2 Điều 41 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 16/6/2020 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021. Việc thông qua Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án có ý nghĩa quan trọng, giúp cho các bên đương sự tự thỏa thuận, giải quyết toàn bộ vụ việc trên nguyên tắc tự nguyện, chia sẻ, đồng cảm với nhau; hàn gắn tình cảm, giữ mối quan hệ tình cảm giữa các đương sự, tình làng, nghĩa xóm và góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Nghệ An: Điểm sáng trong công tác thi hành án hành chính

Thi hành án nói chung là hoạt động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được thi hành trên thực tế; bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của Nhà nước, tổ chức, cá nhân; bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, góp phần ổn định an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Xét một cách tổng thể, trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, đặc biệt là trong những năm gần đây, công tác thi hành án nói chung và thi hành án dân sự, hành chính nói riêng đã đạt được nhiều kết quả, được Đảng và Nhà nước ghi nhận, từng bước tạo được niềm tin của người dân, doanh nghiệp đối với các cơ quan nhà nước. Trong những thành quả chung đó có sự đóng góp không nhỏ của công tác thi hành án chính.

Thực tiễn thi hành pháp luật về đấu giá tài sản tại Nam Định

Từ trước và sau khi Luật Đấu giá tài sản năm 2016 được ban hành, Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định đã chỉ đạo triển khai thi hành các văn bản quy phạm pháp luật về đấu giá tài sản và tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đấu giá tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.

Sở Tư pháp tỉnh Điện Biên triển khai đồng bộ nhiều giải pháp theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại tạo sự hài lòng của tổ chức, công dân tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính

Trong thời gian qua, được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng ủy, tập thể lãnh đạo Sở Tư pháp, Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính (Bộ phận Một cửa) thuộc Văn phòng Sở đã nỗ lực triển khai nhiều giải pháp, cách làm sáng tạo, hiệu quả, phù hợp với điều kiện thực tiễn của đơn vị và địa phương, góp phần nâng cao chất lượng phục vụ các dịch vụ công cho cá nhân, tổ chức trên địa bàn tỉnh.

Một số dạng vi phạm điển hình trong thực tiễn công tác kiểm sát thi hành án dân sự tại thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014, đặc biệt là Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự được ban hành, tiếp tục hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự (THADS), tạo cơ sở pháp lý cho sự chuyển biến cơ bản, bền vững, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác THADS, theo đó, bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Để bảo đảm cho các bản án, quyết định được thi hành đầy đủ, kịp thời, đúng pháp luật, hạn chế vi phạm và tội phạm xảy ra trong lĩnh vực THADS, Ngành Kiểm sát được Quốc hội giao chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực THADS.

Thi hành án dân sự tại tỉnh Tiền Giang - Thực trạng và giải pháp

Bài viết dựa trên các quy định pháp luật liên quan đến công tác thi hành án dân sự; đồng thời tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Tiền Giang. Từ đó, bài viết đề cập đến những kết quả, hạn chế, và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động THADS trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.

Một số vướng mắc trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ở Hà Tĩnh

Với một hệ thống văn bản pháp luật của tỉnh khá đầy đủ, toàn diện điều chỉnh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đã tạo hành lang pháp lý vững chắc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của cơ quan nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, xã hội của tỉnh nhà. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình xây dựng VBQPPL, cụ thể:

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm