Thứ bảy 05/07/2025 04:05
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Chế định thỏa thuận nhận tội ở Trung Quốc - Giá trị tham khảo cho tư pháp hình sự Việt Nam

Bài viết đánh giá khái quát quá trình Trung Quốc xây dựng và hoàn thiện chế định thỏa thuận nhận tội trong tư pháp hình sự và rút ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Thỏa thuận nhận tội xuất hiện ở Hoa Kỳ từ những năm 1970, hiện nay, được nhiều quốc gia áp dụng trong tư pháp hình sự (TPHS), góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tư pháp. Là quốc gia có ảnh hưởng nhiều từ hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (Civil law) và hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa nhưng Trung Quốc đã sớm tiếp cận và áp dụng một số nội dung của chế định thỏa thuận nhận tội nhằm nâng cao hiệu quả TPHS.

1. Chế định thỏa thuận nhận tội trong tư pháp hình sự Trung Quốc

1.1. Quá trình hình thành chế định thỏa thuận nhận tội ở Trung Quốc

Những năm 1980, các học giả Trung Quốc bắt đầu nhận thấy sự phát triển của phương thức thỏa thuận nhận tội thông qua việc nghiên cứu thủ tục tố tụng của Đức, tuy nhiên, cho đến hết thế kỷ XX, thỏa thuận nhận tội chưa được nhiều sự ủng hộ của giới nghiên cứu, lập pháp và cả những cơ quan tiến hành tố tụng. Những năm 1990, giới luật học Trung Quốc có thái độ phản đối áp dụng phương thức thỏa thuận nhận tội và cho rằng, nó không phù hợp với mô hình tố tụng hình sự (TTHS) của Trung Quốc. Bên cạnh đó, theo lý thuyết truyền thống của TPHS Trung Quốc, bị cáo là bên bị xét xử trong vụ án hình sự (VAHS), không phải chủ thể để có thể thỏa thuận/mặc cả hay thỏa thuận với các cơ quan tố tụng về tội phạm và các hình phạt phải chịu. Vì những quan niệm như vậy, từ người dân đến các nhà nghiên cứu vẫn còn những định kiến cho rằng, việc thừa nhận và áp dụng cơ chế thỏa thuận nhận tội là sự “xúc phạm công lý”, không thể chấp nhận được ở Trung Quốc. Trong một nghiên cứu của Lu, Yuguang (2021)[1], đã đưa ra 06 lý do dẫn đến việc không thừa nhận thỏa thuận nhận tội, bao gồm: (i) Thời điểm trước những năm 2012, số lượng các VAHS ở Trung Quốc không lớn do Chính phủ thực hiện trấn áp tội phạm với chính sách nghiêm khắc; (ii) Số lượng luật sư và trợ giúp pháp lý nhỏ, không có đủ để cung cấp cho các bị cáo để thực hiện thỏa thuận theo cơ chế này. Bên cạnh đó, trong giai đoạn này, luật sư chỉ được tham gia tố tụng sau giai đoạn điều tra; (iii) Về mặt pháp lý, không có cơ sở để áp dụng thỏa thuận nhận tội; (iv) Lý thuyết TPHS Trung Quốc coi bị cáo là người đang bị xét xử, không phải là một bên có thể đưa ra thỏa thuận hay thỏa thuận với các cơ quan tố tụng; (v) Lý do thứ năm khiến cho thỏa thuận nhận tội không thể được áp dụng sớm hơn là do tên gọi của chế định/phương thức/cơ chế này. Khi dịch sang tiếng Trung, chế định này được hiểu gần với những hành vi “mặc cả” trong hoạt động thương mại, trái với giá trị của TPHS là xét xử và trừng trị tội phạm, thực thi công lý; (vi) Hầu hết các nạn nhân trong các VAHS (thậm chí cả người dân) khó khăn trong việc thể hiện sự thương xót hay cảm thông với bị cáo trong các VAHS. Mong muốn của họ là tội phạm phải được trừng phạt nghiêm minh, không chấp nhận sự thỏa thuận.

Năm 2014, Trung Quốc khởi xướng cải cách tư pháp, trong đó, liên quan đến việc đưa hệ thống thỏa thuận nhận tội vào Bộ luật Tố tụng hình sự Trung Quốc nhằm nâng cao hiệu quả tư pháp. Theo báo cáo về cuộc thử nghiệm kéo dài 02 năm về thỏa thuận nhận tội ở 18 thành phố, được Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc ủy quyền vào năm 2016, cho đến cuối tháng 9/2018, tỷ lệ các vụ việc được giải quyết bằng thỏa thuận nhận tội là 53,68% trong suốt 02 năm[2]. Quá trình xét xử những vụ án này kéo dài không quá 10 ngày. Chỉ 3,35% tổng số vụ việc được giải quyết thông qua thỏa thuận nhận tội bị kháng cáo[3]. Trong nửa đầu năm 2020, 82,2% vụ việc được giải quyết thông qua thỏa thuận nhận tội[4]. Những số liệu thống kê này chứng minh rằng, hệ thống thỏa thuận nhận tội của Trung Quốc đang trở thành thông lệ và nâng cao hiệu quả của thủ tục TTHS.

Ngày 26/10/2018, tại Kỳ họp thứ sáu của Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc lần thứ XIII đã quyết định sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự của Trung Quốc, thiết lập hệ thống thỏa thuận nhận tội (khoan hồng cho việc thú tội và chấp nhận tội lỗi). Điều 15 Bộ luật Tố tụng hình sự Trung Quốc (sửa đổi năm 2018) thiết lập hệ thống thỏa thuận nhận tội như một nguyên tắc cơ bản của thủ tục TTHS Trung Quốc: Nếu nghi phạm hoặc bị cáo tự nguyện và thành thật thú nhận tội phạm, thừa nhận các sự thật phạm tội bị cáo buộc và sẵn sàng chấp nhận hình phạt, anh ta có thể được đối xử khoan hồng theo luật pháp. Điều khác biệt là, một chế độ xét xử mới gọi là “xét xử nhanh” đã được thành lập, phục vụ riêng cho chế độ khoan hồng khi nhận tội (thỏa thuận nhận tội). Khi bị cáo nhận tội và các điều kiện khác cũng đáp ứng yêu cầu áp dụng chế độ khoan hồng, công tố viên có thể đề nghị không áp dụng thủ tục xét xử thông thường để tiết kiệm chi phí tư pháp và đề xuất một thủ tục TTHS nhanh hơn thay thế cho xét xử thông thường, công tố viên có thể lựa chọn giữa xét xử nhanh hoặc xét xử rút gọn. Bộ luật Tố tụng hình sự Trung Quốc (sửa đổi năm 2018) quy định, các luật sư chỉ định cần được cử đến các cơ quan khác nhau bao gồm Tòa án, Viện kiểm sát và trại giam (Điều 36); các luật sư chỉ định có thể đưa ra ý kiến, bằng miệng hoặc bằng văn bản, bao gồm những vấn đề liên quan đến thỏa thuận nhận tội và các ý kiến này cần được ghi vào hồ sơ vụ án (Điều 173). Sự tham gia này không chỉ bảo vệ quyền lợi của bị cáo mà còn nâng cao chất lượng của quá trình đàm phán thú tội.

1.2. Những nguyên tắc cơ bản để áp dụng thỏa thuận nhận tội

Là một quy định mới trong TTHS, thỏa thuận nhận tội trong TPHS Trung Quốc phải bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động TPHS Trung Quốc, cụ thể:

- Thực hiện chính sách hình sự kết hợp giữa khoan hồng và nghiêm khắc đối với xử lý tội phạm. Khi áp dụng hệ thống khoan hồng cho việc thú tội và chấp nhận tội lỗi, cần phân biệt tính chất, hoàn cảnh và mức độ gây hại cho xã hội của vụ án theo các hoàn cảnh cụ thể của tội phạm và thực hiện các biện pháp xử lý khác nhau, nhằm đạt được sự khoan hồng khi thích hợp và nghiêm khắc khi cần thiết, cân bằng giữa khoan hồng và nghiêm khắc, trừng phạt theo tội phạm.

- Tuân thủ nguyên tắc tương xứng giữa tội phạm, trách nhiệm và hình phạt. Một mặt, nên xem xét tính tự nguyện, kịp thời, ổn định và toàn diện của việc thú tội và chấp nhận tội lỗi, liệu có thực sự ăn năn hay không và vai trò của việc phát hiện kịp thời vụ án để quyết định có nên khoan hồng hay không và mức độ cụ thể. Mặt khác, cần xem xét mức độ nghiêm trọng của tội phạm. Đối với những tội phạm nhỏ và nguy cơ cá nhân thấp, đặc biệt là đối với người phạm tội lần đầu và phạm tội ngẫu nhiên, mức độ khoan hồng có thể lớn hơn; đối với những tội phạm nghiêm trọng và nguy cơ cá nhân cao, cũng như đối với người tái phạm và tái phạm nhiều lần, mức độ khoan hồng có thể nhỏ hơn hoặc thậm chí không xem xét khoan hồng.

- Tuân thủ nguyên tắc xét xử dựa trên bằng chứng. Trong tất cả các VAHS, bất kể bị cáo có thú tội hay không hoặc mức độ nghiêm khắc của bản án, tiêu chuẩn chứng cứ pháp lý “sự thật rõ ràng, chứng cứ đáng tin cậy và đầy đủ” phải được áp dụng một cách thống nhất. Yêu cầu chứng cứ và tiêu chuẩn chứng minh không được giảm chỉ vì nghi phạm hoặc bị cáo thú tội và chấp nhận hình phạt.

- Tuân thủ nguyên tắc phối hợp và kiềm chế giữa ba cơ quan công an, kiểm sát và tư pháp, bảo đảm tính tự nguyện, chân thực của việc thú tội và chấp nhận tội lỗi của nghi phạm hoặc bị cáo và thực hiện khoan hồng cả về nội dung lẫn thủ tục theo luật định.

1.3. Phạm vi áp dụng

Thỏa thuận nhận tội trong TPHS Trung Quốc áp dụng cho tất cả các VAHS miễn là nghi phạm hoặc bị cáo tự nguyện và thành thật thú nhận tội phạm, không có phản đối đối với các sự thật phạm tội bị cáo buộc và sẵn sàng chấp nhận hình phạt, hệ thống này có thể được áp dụng. Tuy nhiên, việc hệ thống này có thể được áp dụng trong nguyên tắc cho tất cả các vụ án không nhất thiết có nghĩa là nó phải được áp dụng. Đối với những tội phạm có tính chất nghiêm trọng, phương thức phạm tội tàn ác, gây hại nghiêm trọng cho xã hội và phản ứng của công chúng mạnh mẽ, nếu việc thú nhận tội và chấp nhận tội lỗi của họ không đủ để biện minh cho sự khoan hồng, họ vẫn phải bị trừng phạt nghiêm khắc theo pháp luật.

Khía cạnh thứ hai nói về cách bắt đầu cơ chế thỏa thuận nhận tội và nghĩa vụ của các cơ quan khác nhau trong quá trình này. Bộ luật Tố tụng hình sự Trung Quốc (sửa đổi năm 2018) quy định rằng, các cơ quan điều tra không có quyền bắt đầu đàm phán thú tội nhưng quy định khi hỏi cung nghi phạm, điều tra viên phải thông báo cho nghi phạm biết các quy định của pháp luật về việc khoan hồng đối với người thành khẩn khai nhận tội phạm, quy định về việc nhận tội và chấp nhận hình phạt (Điều 120). Điều tra viên cần ghi lại những hành vi nhất định như việc bị cáo đã thừa nhận tội trước khi vụ án được chuyển đến kiểm sát viên (các điều 81, 162). Rõ ràng, nếu bị cáo đã thừa nhận tội với cảnh sát, có khả năng cao để kích hoạt cơ chế thỏa thuận nhận tội qua kiểm sát viên.

1.4. Thủ tục áp dụng thỏa thuận nhận tội

Thỏa thuận nhận tội không phải là một thủ tục cá biệt, mà là sự kết hợp của nhiều phần nhỏ từ toàn bộ Bộ luật Tố tụng hình sự. Hiện nay, có 03 loại phiên tòa ở Trung quốc: Thông thường, rút gọn và xét xử nhanh. Các phiên tòa xét xử nhanh là phiên tòa ngắn nhất, chỉ diễn ra nếu có thỏa thuận nhận tội và hình phạt dưới 03 năm (Điều 222 Bộ luật Tố tụng hình sự Trung Quốc (sửa đổi năm 2018)). Bộ luật Tố tụng hình sự Trung Quốc (sửa đổi năm 2018) quy định về thủ tục phiên tòa đối với các trường hợp đạt được thỏa thuận nhận tội như sau:

- Thủ tục rút gọn (Điều 214): Một vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cơ sở có thể được xét xử theo thủ tục rút gọn nếu các điều kiện sau được đáp ứng: Các tình tiết của vụ án rõ ràng và chứng cứ đầy đủ, bị cáo nhận tội và không phản đối cáo buộc, bị cáo không phản đối việc áp dụng thủ tục rút gọn. Khi khởi tố công khai, Viện kiểm sát có thể đề nghị Tòa án áp dụng thủ tục rút gọn.

Theo giải thích chính thức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao vào đầu năm 2018, có thể kết luận một số điều kiện bổ sung để kích hoạt thủ tục rút gọn thay vì thủ tục thông thường: Trước hết, bị cáo phải nhận tội trước khi công tố viên đề nghị áp dụng bất kỳ thủ tục nào (rút gọn/nhanh). Việc nhận tội là điều kiện cơ bản - nếu không có sự nhận tội tích cực, xét xử thông thường sẽ là lựa chọn thủ tục duy nhất. Do đó, việc áp dụng xét xử rút gọn yêu cầu bị cáo không có tranh luận về các hoàn cảnh/chứng cứ của vụ án, đồng thời, đồng ý áp dụng thủ tục rút gọn.

- Thủ tục nhanh (Điều 222): Có thể được áp dụng trong các vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cơ sở mà có thể bị phạt tù đến 03 năm, khi các tình tiết của vụ án rõ ràng, chứng cứ đáng tin cậy và đầy đủ, bị cáo nhận tội, chấp nhận hình phạt và đồng ý sử dụng thủ tục nhanh, xét xử sẽ được thực hiện bởi một thẩm phán duy nhất. Khi Viện kiểm sát khởi tố, có thể đề nghị Tòa án áp dụng thủ tục nhanh. Đối với các vụ án được xét xử theo thủ tục xét xử nhanh, chỉ cần một thẩm phán - không cần hội đồng xét xử; thêm vào đó, thủ tục TTHS mới yêu cầu toàn bộ quá trình (xét xử nhanh) phải hoàn thành trong vòng 15 ngày, kể từ khi kết thúc nộp hồ sơ (đến Tòa án cơ sở) cho đến khi kết thúc xét xử; ngoài ra, bản án cần được công bố ngay tại phiên tòa sau khi xét xử.

+ Giai đoạn đầu tiên của thủ tục chính hướng dẫn những gì kiểm sát viên nên chuẩn bị hoặc chú ý trước phiên tòa, bao gồm các giới hạn thời gian (Điều 172), hồ sơ (Điều 173), bản khai (Điều 174) và khuyến nghị kết án (Điều 176). Điều 172 quy định giới hạn thời gian để quyết định truy tố theo cơ chế thỏa thuận nhận tội và đáp ứng các yêu cầu của một phiên tòa nhanh; quyết định này cần được đưa ra bởi kiểm sát viên trong vòng 10 ngày. Điều này bao gồm một khía cạnh quan trọng khác là hiệu quả. Lý thuyết về đàm phán thú tội liên quan mạnh mẽ đến hiệu quả tư pháp và một cách để Trung Quốc cải thiện hiệu quả tư pháp là xây dựng quy trình nhanh bên cạnh quy trình rút gọn, phân phối các VAHS một cách hiệu quả hơn vào các thủ tục xét xử khác nhau. Chúng ta có thể coi quy trình nhanh là một phần mở rộng của tinh thần thỏa thuận nhận tội. Điều 174 quy định về kiểu một bên của “hợp đồng” thú tội, bản khai thú tội. Trong khi bản khai đại diện cho công việc của bị cáo và luật sư thì khuyến nghị kết án đại diện cho kết luận và đánh giá của kiểm sát viên về vụ án (Điều 176). Có thể nói, các điều 172, 173 là quy định thủ tục cho kiểm sát viên, còn các điều 174, 176 là yêu cầu vật chất.

+ Giai đoạn thứ hai của thủ tục chính là về cấu trúc của phiên tòa, được đề cập tại các điều 183, 190, 201. Trong đó, Điều 183 quy định số lượng thẩm phán, hội thẩm cho các phiên tòa rút gọn và nhanh (chỉ một thẩm phán xuất hiện, không cần hội thẩm). Điều 190 quy định rằng, thẩm phán phải thông báo cho bị cáo về quyền của họ trong phiên tòa thỏa thuận nhận tội.

Một điểm quan trọng cần lưu ý là bị cáo trong thỏa thuận nhận tội vẫn có quyền kháng cáo. Để giải thích điều này - tương tự như đàm phán thú tội ở Hoa Kỳ, để đạt được thỏa thuận với kiểm sát viên, bị cáo cần chấp nhận các cáo buộc và khuyến nghị kết án. Sự khác biệt là bị cáo trong thỏa thuận nhận tội vẫn có quyền kháng cáo nếu họ cảm thấy quyền lợi pháp lý của mình bị vi phạm trong quá trình thỏa thuận nhận tội. Do đó, mặc dù việc kháng cáo có thể không được hoan nghênh trong quá trình đàm phán thú tội, quyền kháng cáo không bị ngăn cấm theo luật pháp. Đây là một điểm khác biệt rõ ràng so với quy trình ở Hoa Kỳ. Điều 201 quy định về quyền hạn của thẩm phán.

+ Giai đoạn cuối cùng điều chỉnh quy trình xét xử nhanh (từ Điều 222 đến Điều 226). Các phiên tòa nhanh có thể được coi là phiên bản đơn giản hóa hơn của các phiên tòa rút gọn. Điều 222 quy định, nếu mức án tiềm năng dưới 03 năm, có thể bắt đầu xét xử nhanh theo đề nghị của kiểm sát viên. Điều này cũng xác nhận rằng, phiên tòa nhanh chỉ có thể bắt đầu khi bị cáo đã thú tội và đồng ý áp dụng quy trình nhanh. Điều 223 liệt kê những tình huống loại trừ phiên tòa nhanh. Một điểm quan trọng trong điều khoản này là “vụ án có tác động xã hội lớn”. Một phiên tòa nhanh chỉ yêu cầu một thẩm phán nhưng trong những vụ án có tác động lớn, cần nhiều người hơn (nên sử dụng phiên tòa rút gọn hoặc thậm chí thông thường) để đạt được kết quả công bằng và đáp ứng tốt hơn với công chúng.

Điều 224 là quy định về một trong những điểm khác biệt chính giữa thỏa thuận nhận tội và đàm phán thú tội ở Hoa Kỳ, đó là yêu cầu bắt buộc của phiên tòa ở Trung Quốc: “Phải nghe ý kiến của luật sư bào chữa và ý kiến cuối cùng của bị cáo”. Mục đích của điều khoản này là bảo đảm sự tự do của bị cáo khi thú tội một lần nữa, trước Tòa án. Thẩm phán cần loại trừ, càng nhiều càng tốt, khả năng thú tội do tra tấn hoặc thỏa thuận phi pháp giữa luật sư và kiểm sát viên. Điều 225 quy định thời hạn của một phiên tòa nhanh. Điều 226 nhấn mạnh một điểm quan trọng về công bằng, nếu “Tòa án phát hiện rằng bị cáo thú tội và chấp nhận hình phạt trái với ý muốn của mình, một phiên tòa mới sẽ được tổ chức”. Điều này có thể hiểu là một dấu hiệu cho thấy, Trung Quốc đang tập trung hơn vào quyền lợi của bị cáo.

Như vậy, việc nghiên cứu và áp dụng hệ thống thỏa thuận nhận tội trong TPHS Trung Quốc theo đánh giá là một sự đổi mới quan trọng của TPHS xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc, làm phong phú thêm “giải pháp Trung Quốc” về TPHS và xử lý tội phạm. Nó có ý nghĩa lớn trong việc cải thiện hệ thống TTHS của Trung Quốc, trừng phạt tội phạm kịp thời và hiệu quả theo luật pháp, tăng cường bảo vệ tư pháp về quyền con người, tối ưu hóa phân bổ nguồn lực tư pháp, giải quyết mâu thuẫn xã hội, thúc đẩy hòa hợp xã hội và hiện đại hóa hệ thống quản lý quốc gia và khả năng quản lý. Quá trình này được thiết lập không phải thông qua việc tạo ra một chương mới mà thông qua việc vận hành các phần mới khác nhau của Bộ luật Tố tụng hình sự[5].

2. Khuyến nghị đối với Việt Nam

Hiện nay, ngoài Trung Quốc, ở nhiều quốc gia trên thế giới có quy định về thỏa thuận nhận tội, theo đó, pháp luật cho phép người phạm tội (có thể người đại diện là luật sư bào chữa) và Nhà nước mà đại diện là cơ quan tiến hành tố tụng (trực tiếp là công tố viên) được quyền thỏa thuận với nhau để bị cáo nhận tội đổi lại để có kết quả giải quyết vụ án có lợi cho mình.

Pháp luật Việt Nam chưa có quy định thỏa thuận nhận tội, tuy nhiên, hiện nay, đã có quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, cho phép có sự thỏa thuận giữa người phạm tội và người bị hại trong một số vụ án thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Ngoài ra, quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như người phạm tội tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tích cực phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phát hiện xử lý tội phạm… Đây là những cơ sở quan trọng trong chính sách xử lý người phạm tội để có thể tạo tiền đề nghiên cứu cơ chế thỏa thuận nhận tội từ kinh nghiệm của các nước.

Hệ thống TPHS Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc về tổ chức, hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và chính sách khoan hồng đối với những người tự nguyện khai báo, nhận tội. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, số lượng các VAHS tăng lên với tính chất ngày càng phức tạp đang tạo ra những áp lực lên hệ thống TPHS. Việc nghiên cứu kinh nghiệm các quốc gia trên thế giới, trong đó có Trung Quốc là thực sự cần thiết và cấp bách nhằm nâng cao hiệu quả công tác tư pháp theo hướng giảm chi phí, thời gian và nhân sự cho các cơ quan tư pháp, đồng thời, có thêm cơ chế để giải quyết các VAHS trên cơ sở học tập, rút kinh nghiệm tổ chức triển khai chế định này từ các quốc gia./.

NCS. ThS. Đinh Công Tuấn & Nguyễn Thị Hoàng Sang

Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp

Ảnh: Internet

[1]. Lu, Yuguang (2021), “Nghiên cứu so sánh về hệ thống khoan hồng của Trung Quốc”, https://www.repository.law.indiana.edu/etd/, truy cập ngày 10/6/2024.

[2]. Hu, Y. T. (2018), Interpretation and Application of Chinese Plea Bargaining. Beijing: People’s Court Press, tr. 271.

[3]. Hu, Y. T. (2018), tlđd, tr. 274.

[4]. Shi, Zh. K. (2020b), Several Indexes on Procedural Supervision increase to Provide Legal Protection. Beijing: Daily of Prosecution.

[5]. Lu, Yuguang (2021), tlđd, tr. 21 - 28.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 410), tháng 8/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Hiện nay, các tội phạm sử dụng công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội diễn ra ngày càng phổ biến. Một trong những công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội, nguy hiểm, gây ra thiệt hại lớn cho xã hội được các tội phạm sử dụng nhiều nhất, chính là sử dụng mã độc tống tiền (Ransomware). Vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật để kịp thời phòng, chống những tác hại của Ransomware là thực sự cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Bài viết nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật của Hoa Kỳ và Trung Quốc, từ đó, kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Pháp luật về hòa giải thương mại của Việt Nam và Ấn Độ - Góc nhìn so sánh và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Việt Nam và Ấn Độ đều có khung pháp lý điều chỉnh hoạt động hòa giải thương mại, nhưng có sự khác biệt đáng kể về cơ chế vận hành và thực thi. Bài viết sử dụng phương pháp so sánh luật học để phân tích và đối chiếu quy định pháp luật giữa hai quốc gia, đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp luật về hòa giải thương mại tại Việt Nam.

Vai trò của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp và giá trị tham khảo cho Việt Nam

Nội các Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong quá trình lập pháp với quyền đề xuất hầu hết các dự thảo luật trình lên Quốc hội. Bài viết nghiên cứu, phân tích vị trí, vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp, từ sáng kiến đến soạn thảo, đánh giá và thông qua luật. Đồng thời, so sánh với quy trình lập pháp tại Việt Nam, chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt quan trọng. Từ đó, đề xuất các giá trị mà Việt Nam có thể tham khảo nhằm nâng cao vị trí và vai trò của Chính phủ trong quá trình xây dựng pháp luật.

Hình phạt tiền - Dưới góc nhìn so sánh pháp luật hình sự Việt Nam với Liên bang Úc và kinh nghiệm cho Việt Nam

Hình phạt tiền ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong hệ thống hình phạt của nhiều quốc gia, kể cả Việt Nam và Liên bang Úc, như một biện pháp hiệu quả để xử lý các hành vi phạm tội, đặc biệt là các tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm do pháp nhân thực hiện. Bài viết phân tích quy định pháp luật hình sự về hình phạt tiền của Việt Nam và Liên bang Úc, làm rõ sự khác biệt về đối tượng pháp nhân chịu trách nhiệm, phương pháp xác định mức phạt, các yếu tố Tòa án cân nhắc và cơ chế thi hành; từ đó, rút ra một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo đối với Việt Nam.

Kết đôi dân sự theo pháp luật của Pháp và gợi mở quy chế pháp lý cho cặp đôi không muốn kết hôn tại Việt Nam

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã ghi nhận và thiết lập quy định liên quan đến vấn đề chung sống như vợ chồng, bởi đây là hiện tượng khách quan và phổ biến trong xã hội. Bộ luật Dân sự Pháp đã thiết kế chế định kết đôi dân sự để điều chỉnh mối quan hệ giữa các cặp đôi chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn. Bài viết phân tích chế định kết đôi dân sự ở Pháp, thực trạng chung sống như vợ chồng ở Việt Nam và gợi mở về một số thay đổi của chính sách, pháp luật hôn nhân và gia đình tại Việt Nam.
Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh là một cơ chế pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của cổ đông và công ty. Hình thức kiện này đã hình thành từ rất lâu tại Anh và được xây dựng dựa trên nền tảng thông luật. Ở Việt Nam, kiện phái sinh mới chỉ được ghi nhận thông qua các quy định pháp luật trong thời gian gần đây. Bài viết phân tích các quy định pháp lý về hình thức kiện phái sinh tại Vương quốc Anh, đánh giá những ưu điểm, hạn chế của cơ chế này, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện cơ chế kiện phái sinh, phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam.

Xây dựng mô hình Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ tại Việt Nam - Kinh nghiệm từ Nhật Bản và Vương quốc Anh

Bài viết so sánh mô hình Tòa Thượng thẩm sở hữu trí tuệ chuyên sâu Nhật Bản và hệ thống Tòa án sở hữu trí tuệ xét xử linh hoạt ở Anh, từ đó, rút ra khuyến nghị cho Việt Nam, đề xuất thành lập Tòa án chuyên biệt về sở hữu trí tuệ tại các trung tâm kinh tế lớn, kết hợp mô hình xét xử phù hợp để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả.

Thuế carbon và cơ chế điều chỉnh biên giới carbon - Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý khung pháp lý cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada trong thiết kế và thực thi chính sách định giá carbon, đồng thời, chỉ ra những khoảng trống của pháp luật Việt Nam, đặc biệt, về Hệ thống đo lường, giám sát phát thải và Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon. Trên cơ sở đó, đề xuất lộ trình xây dựng luật thuế carbon, tích hợp Hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định, Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon nội địa và quy trình quản lý thuế minh bạch, giúp Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, bảo vệ doanh nghiệp và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ - Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu về trí tuệ nhân tạo (AI), sự cần thiết ứng dụng AI trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) nhìn từ kinh nghiệm của một số quốc gia, khu vực dẫn đầu trong việc ứng dụng AI vào bảo hộ quyền SHTT như Hoa Kỳ, châu Âu, Trung Quốc… từ đó, nghiên cứu đưa ra một số gợi mở cho việc ứng dụng AI trong việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến việc ứng dụng AI vào hoạt động bảo hộ quyền SHTT.

Chuẩn hợp đồng (Quasi contract) - Cơ sở pháp lý và đề xuất áp dụng tại Việt Nam

Bài viết phân tích khái niệm chuẩn hợp đồng (Quasi contract) trong hệ thống pháp luật Common Law và sự tương đồng với một số quy định trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, đồng thời đề xuất việc nghiên cứu lựa chọn có chọn lọc và áp dụng Quasi contract vào hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp và bảo vệ quyền lợi các bên.

Bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo - Nhìn từ thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết phân tích chính sách bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư liên quan đến trí tuệ nhân tạo (AI) ở một số quốc gia trên thế giới, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam về vấn đề này.

Cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba tại Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho Việt Nam

Bài viết phân tích cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba (cơ chế Safe Harbor) trong luật pháp Hoa Kỳ và Việt Nam, từ đó, đưa ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật liên quan đến các trường hợp miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet.

Xây dựng luật thuế các-bon - Kinh nghiệm Singapore và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Thuế các-bon là một công cụ tài chính quan trọng nhằm giảm phát thải khí nhà kính bằng cách định giá lượng khí CO₂ thải ra môi trường. Việc áp dụng thuế này không chỉ giúp kiểm soát ô nhiễm mà còn tạo nguồn thu để đầu tư vào các giải pháp phát triển bền vững. Trong bối cảnh đã có nhiều quốc gia xây dựng, ban hành và áp dụng thuế các-bon, Việt Nam cần cân nhắc xây dựng khung pháp lý phù hợp cho việc áp dụng thuế các-bon trong nước. Singapore là một trong những quốc gia đi đầu ở Đông Nam Á trong xây dựng, áp dụng pháp luật về thuế các-bon với nhiều điểm nổi bật mà Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc, phù hợp với thực tế của Việt nam. Xuất phát từ đó, bài viết làm rõ một số kinh nghiệm nổi bật của Singapore về xây dựng Luật thuế các-bon, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích quy định về xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 ngày 23/10/2024 của Nghị viện và Hội đồng châu Âu về việc cải thiện điều kiện làm việc đối với công việc nền tảng (Chỉ thị (EU) 2024/2831) và thực trạng xác định tình trạng lao động tại Việt Nam hiện nay, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Miễn trừ thông báo tập trung kinh tế - Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tập trung kinh tế là quá trình giảm số lượng doanh nghiệp độc lập trên thị trường thông qua sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh nhằm mở rộng quy mô và nâng cao khả năng cạnh tranh. Hành vi này giúp tối ưu nguồn lực nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ hạn chế cạnh tranh, dẫn đến độc quyền, ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường và người tiêu dùng. Pháp luật cạnh tranh của Mỹ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản kiểm soát tập trung kinh tế qua quy định về thông báo giao dịch và các trường hợp miễn trừ thông báo đối với hành vi tập trung kinh tế ít tác động đến thị trường. Từ kinh nghiệm của những quốc gia này về các trường hợp được miễn thông báo tập trung kinh tế, nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Theo dõi chúng tôi trên:

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm