Thỏa thuận nhận tội xuất hiện ở Hoa Kỳ từ những năm 1970, hiện nay, được nhiều quốc gia áp dụng trong tư pháp hình sự (TPHS), góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tư pháp. Là quốc gia có ảnh hưởng nhiều từ hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (Civil law) và hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa nhưng Trung Quốc đã sớm tiếp cận và áp dụng một số nội dung của chế định thỏa thuận nhận tội nhằm nâng cao hiệu quả TPHS.
1. Chế định thỏa thuận nhận tội trong tư pháp hình sự Trung Quốc
1.1. Quá trình hình thành chế định thỏa thuận nhận tội ở Trung Quốc
Những năm 1980, các học giả Trung Quốc bắt đầu nhận thấy sự phát triển của phương thức thỏa thuận nhận tội thông qua việc nghiên cứu thủ tục tố tụng của Đức, tuy nhiên, cho đến hết thế kỷ XX, thỏa thuận nhận tội chưa được nhiều sự ủng hộ của giới nghiên cứu, lập pháp và cả những cơ quan tiến hành tố tụng. Những năm 1990, giới luật học Trung Quốc có thái độ phản đối áp dụng phương thức thỏa thuận nhận tội và cho rằng, nó không phù hợp với mô hình tố tụng hình sự (TTHS) của Trung Quốc. Bên cạnh đó, theo lý thuyết truyền thống của TPHS Trung Quốc, bị cáo là bên bị xét xử trong vụ án hình sự (VAHS), không phải chủ thể để có thể thỏa thuận/mặc cả hay thỏa thuận với các cơ quan tố tụng về tội phạm và các hình phạt phải chịu. Vì những quan niệm như vậy, từ người dân đến các nhà nghiên cứu vẫn còn những định kiến cho rằng, việc thừa nhận và áp dụng cơ chế thỏa thuận nhận tội là sự “xúc phạm công lý”, không thể chấp nhận được ở Trung Quốc. Trong một nghiên cứu của Lu, Yuguang (2021)[1], đã đưa ra 06 lý do dẫn đến việc không thừa nhận thỏa thuận nhận tội, bao gồm: (i) Thời điểm trước những năm 2012, số lượng các VAHS ở Trung Quốc không lớn do Chính phủ thực hiện trấn áp tội phạm với chính sách nghiêm khắc; (ii) Số lượng luật sư và trợ giúp pháp lý nhỏ, không có đủ để cung cấp cho các bị cáo để thực hiện thỏa thuận theo cơ chế này. Bên cạnh đó, trong giai đoạn này, luật sư chỉ được tham gia tố tụng sau giai đoạn điều tra; (iii) Về mặt pháp lý, không có cơ sở để áp dụng thỏa thuận nhận tội; (iv) Lý thuyết TPHS Trung Quốc coi bị cáo là người đang bị xét xử, không phải là một bên có thể đưa ra thỏa thuận hay thỏa thuận với các cơ quan tố tụng; (v) Lý do thứ năm khiến cho thỏa thuận nhận tội không thể được áp dụng sớm hơn là do tên gọi của chế định/phương thức/cơ chế này. Khi dịch sang tiếng Trung, chế định này được hiểu gần với những hành vi “mặc cả” trong hoạt động thương mại, trái với giá trị của TPHS là xét xử và trừng trị tội phạm, thực thi công lý; (vi) Hầu hết các nạn nhân trong các VAHS (thậm chí cả người dân) khó khăn trong việc thể hiện sự thương xót hay cảm thông với bị cáo trong các VAHS. Mong muốn của họ là tội phạm phải được trừng phạt nghiêm minh, không chấp nhận sự thỏa thuận.
Năm 2014, Trung Quốc khởi xướng cải cách tư pháp, trong đó, liên quan đến việc đưa hệ thống thỏa thuận nhận tội vào Bộ luật Tố tụng hình sự Trung Quốc nhằm nâng cao hiệu quả tư pháp. Theo báo cáo về cuộc thử nghiệm kéo dài 02 năm về thỏa thuận nhận tội ở 18 thành phố, được Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc ủy quyền vào năm 2016, cho đến cuối tháng 9/2018, tỷ lệ các vụ việc được giải quyết bằng thỏa thuận nhận tội là 53,68% trong suốt 02 năm[2]. Quá trình xét xử những vụ án này kéo dài không quá 10 ngày. Chỉ 3,35% tổng số vụ việc được giải quyết thông qua thỏa thuận nhận tội bị kháng cáo[3]. Trong nửa đầu năm 2020, 82,2% vụ việc được giải quyết thông qua thỏa thuận nhận tội[4]. Những số liệu thống kê này chứng minh rằng, hệ thống thỏa thuận nhận tội của Trung Quốc đang trở thành thông lệ và nâng cao hiệu quả của thủ tục TTHS.
Ngày 26/10/2018, tại Kỳ họp thứ sáu của Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc lần thứ XIII đã quyết định sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự của Trung Quốc, thiết lập hệ thống thỏa thuận nhận tội (khoan hồng cho việc thú tội và chấp nhận tội lỗi). Điều 15 Bộ luật Tố tụng hình sự Trung Quốc (sửa đổi năm 2018) thiết lập hệ thống thỏa thuận nhận tội như một nguyên tắc cơ bản của thủ tục TTHS Trung Quốc: Nếu nghi phạm hoặc bị cáo tự nguyện và thành thật thú nhận tội phạm, thừa nhận các sự thật phạm tội bị cáo buộc và sẵn sàng chấp nhận hình phạt, anh ta có thể được đối xử khoan hồng theo luật pháp. Điều khác biệt là, một chế độ xét xử mới gọi là “xét xử nhanh” đã được thành lập, phục vụ riêng cho chế độ khoan hồng khi nhận tội (thỏa thuận nhận tội). Khi bị cáo nhận tội và các điều kiện khác cũng đáp ứng yêu cầu áp dụng chế độ khoan hồng, công tố viên có thể đề nghị không áp dụng thủ tục xét xử thông thường để tiết kiệm chi phí tư pháp và đề xuất một thủ tục TTHS nhanh hơn thay thế cho xét xử thông thường, công tố viên có thể lựa chọn giữa xét xử nhanh hoặc xét xử rút gọn. Bộ luật Tố tụng hình sự Trung Quốc (sửa đổi năm 2018) quy định, các luật sư chỉ định cần được cử đến các cơ quan khác nhau bao gồm Tòa án, Viện kiểm sát và trại giam (Điều 36); các luật sư chỉ định có thể đưa ra ý kiến, bằng miệng hoặc bằng văn bản, bao gồm những vấn đề liên quan đến thỏa thuận nhận tội và các ý kiến này cần được ghi vào hồ sơ vụ án (Điều 173). Sự tham gia này không chỉ bảo vệ quyền lợi của bị cáo mà còn nâng cao chất lượng của quá trình đàm phán thú tội.
1.2. Những nguyên tắc cơ bản để áp dụng thỏa thuận nhận tội
Là một quy định mới trong TTHS, thỏa thuận nhận tội trong TPHS Trung Quốc phải bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động TPHS Trung Quốc, cụ thể:
- Thực hiện chính sách hình sự kết hợp giữa khoan hồng và nghiêm khắc đối với xử lý tội phạm. Khi áp dụng hệ thống khoan hồng cho việc thú tội và chấp nhận tội lỗi, cần phân biệt tính chất, hoàn cảnh và mức độ gây hại cho xã hội của vụ án theo các hoàn cảnh cụ thể của tội phạm và thực hiện các biện pháp xử lý khác nhau, nhằm đạt được sự khoan hồng khi thích hợp và nghiêm khắc khi cần thiết, cân bằng giữa khoan hồng và nghiêm khắc, trừng phạt theo tội phạm.
- Tuân thủ nguyên tắc tương xứng giữa tội phạm, trách nhiệm và hình phạt. Một mặt, nên xem xét tính tự nguyện, kịp thời, ổn định và toàn diện của việc thú tội và chấp nhận tội lỗi, liệu có thực sự ăn năn hay không và vai trò của việc phát hiện kịp thời vụ án để quyết định có nên khoan hồng hay không và mức độ cụ thể. Mặt khác, cần xem xét mức độ nghiêm trọng của tội phạm. Đối với những tội phạm nhỏ và nguy cơ cá nhân thấp, đặc biệt là đối với người phạm tội lần đầu và phạm tội ngẫu nhiên, mức độ khoan hồng có thể lớn hơn; đối với những tội phạm nghiêm trọng và nguy cơ cá nhân cao, cũng như đối với người tái phạm và tái phạm nhiều lần, mức độ khoan hồng có thể nhỏ hơn hoặc thậm chí không xem xét khoan hồng.
- Tuân thủ nguyên tắc xét xử dựa trên bằng chứng. Trong tất cả các VAHS, bất kể bị cáo có thú tội hay không hoặc mức độ nghiêm khắc của bản án, tiêu chuẩn chứng cứ pháp lý “sự thật rõ ràng, chứng cứ đáng tin cậy và đầy đủ” phải được áp dụng một cách thống nhất. Yêu cầu chứng cứ và tiêu chuẩn chứng minh không được giảm chỉ vì nghi phạm hoặc bị cáo thú tội và chấp nhận hình phạt.
- Tuân thủ nguyên tắc phối hợp và kiềm chế giữa ba cơ quan công an, kiểm sát và tư pháp, bảo đảm tính tự nguyện, chân thực của việc thú tội và chấp nhận tội lỗi của nghi phạm hoặc bị cáo và thực hiện khoan hồng cả về nội dung lẫn thủ tục theo luật định.
1.3. Phạm vi áp dụng
Thỏa thuận nhận tội trong TPHS Trung Quốc áp dụng cho tất cả các VAHS miễn là nghi phạm hoặc bị cáo tự nguyện và thành thật thú nhận tội phạm, không có phản đối đối với các sự thật phạm tội bị cáo buộc và sẵn sàng chấp nhận hình phạt, hệ thống này có thể được áp dụng. Tuy nhiên, việc hệ thống này có thể được áp dụng trong nguyên tắc cho tất cả các vụ án không nhất thiết có nghĩa là nó phải được áp dụng. Đối với những tội phạm có tính chất nghiêm trọng, phương thức phạm tội tàn ác, gây hại nghiêm trọng cho xã hội và phản ứng của công chúng mạnh mẽ, nếu việc thú nhận tội và chấp nhận tội lỗi của họ không đủ để biện minh cho sự khoan hồng, họ vẫn phải bị trừng phạt nghiêm khắc theo pháp luật.
Khía cạnh thứ hai nói về cách bắt đầu cơ chế thỏa thuận nhận tội và nghĩa vụ của các cơ quan khác nhau trong quá trình này. Bộ luật Tố tụng hình sự Trung Quốc (sửa đổi năm 2018) quy định rằng, các cơ quan điều tra không có quyền bắt đầu đàm phán thú tội nhưng quy định khi hỏi cung nghi phạm, điều tra viên phải thông báo cho nghi phạm biết các quy định của pháp luật về việc khoan hồng đối với người thành khẩn khai nhận tội phạm, quy định về việc nhận tội và chấp nhận hình phạt (Điều 120). Điều tra viên cần ghi lại những hành vi nhất định như việc bị cáo đã thừa nhận tội trước khi vụ án được chuyển đến kiểm sát viên (các điều 81, 162). Rõ ràng, nếu bị cáo đã thừa nhận tội với cảnh sát, có khả năng cao để kích hoạt cơ chế thỏa thuận nhận tội qua kiểm sát viên.
1.4. Thủ tục áp dụng thỏa thuận nhận tội
Thỏa thuận nhận tội không phải là một thủ tục cá biệt, mà là sự kết hợp của nhiều phần nhỏ từ toàn bộ Bộ luật Tố tụng hình sự. Hiện nay, có 03 loại phiên tòa ở Trung quốc: Thông thường, rút gọn và xét xử nhanh. Các phiên tòa xét xử nhanh là phiên tòa ngắn nhất, chỉ diễn ra nếu có thỏa thuận nhận tội và hình phạt dưới 03 năm (Điều 222 Bộ luật Tố tụng hình sự Trung Quốc (sửa đổi năm 2018)). Bộ luật Tố tụng hình sự Trung Quốc (sửa đổi năm 2018) quy định về thủ tục phiên tòa đối với các trường hợp đạt được thỏa thuận nhận tội như sau:
- Thủ tục rút gọn (Điều 214): Một vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cơ sở có thể được xét xử theo thủ tục rút gọn nếu các điều kiện sau được đáp ứng: Các tình tiết của vụ án rõ ràng và chứng cứ đầy đủ, bị cáo nhận tội và không phản đối cáo buộc, bị cáo không phản đối việc áp dụng thủ tục rút gọn. Khi khởi tố công khai, Viện kiểm sát có thể đề nghị Tòa án áp dụng thủ tục rút gọn.
Theo giải thích chính thức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao vào đầu năm 2018, có thể kết luận một số điều kiện bổ sung để kích hoạt thủ tục rút gọn thay vì thủ tục thông thường: Trước hết, bị cáo phải nhận tội trước khi công tố viên đề nghị áp dụng bất kỳ thủ tục nào (rút gọn/nhanh). Việc nhận tội là điều kiện cơ bản - nếu không có sự nhận tội tích cực, xét xử thông thường sẽ là lựa chọn thủ tục duy nhất. Do đó, việc áp dụng xét xử rút gọn yêu cầu bị cáo không có tranh luận về các hoàn cảnh/chứng cứ của vụ án, đồng thời, đồng ý áp dụng thủ tục rút gọn.
- Thủ tục nhanh (Điều 222): Có thể được áp dụng trong các vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cơ sở mà có thể bị phạt tù đến 03 năm, khi các tình tiết của vụ án rõ ràng, chứng cứ đáng tin cậy và đầy đủ, bị cáo nhận tội, chấp nhận hình phạt và đồng ý sử dụng thủ tục nhanh, xét xử sẽ được thực hiện bởi một thẩm phán duy nhất. Khi Viện kiểm sát khởi tố, có thể đề nghị Tòa án áp dụng thủ tục nhanh. Đối với các vụ án được xét xử theo thủ tục xét xử nhanh, chỉ cần một thẩm phán - không cần hội đồng xét xử; thêm vào đó, thủ tục TTHS mới yêu cầu toàn bộ quá trình (xét xử nhanh) phải hoàn thành trong vòng 15 ngày, kể từ khi kết thúc nộp hồ sơ (đến Tòa án cơ sở) cho đến khi kết thúc xét xử; ngoài ra, bản án cần được công bố ngay tại phiên tòa sau khi xét xử.
+ Giai đoạn đầu tiên của thủ tục chính hướng dẫn những gì kiểm sát viên nên chuẩn bị hoặc chú ý trước phiên tòa, bao gồm các giới hạn thời gian (Điều 172), hồ sơ (Điều 173), bản khai (Điều 174) và khuyến nghị kết án (Điều 176). Điều 172 quy định giới hạn thời gian để quyết định truy tố theo cơ chế thỏa thuận nhận tội và đáp ứng các yêu cầu của một phiên tòa nhanh; quyết định này cần được đưa ra bởi kiểm sát viên trong vòng 10 ngày. Điều này bao gồm một khía cạnh quan trọng khác là hiệu quả. Lý thuyết về đàm phán thú tội liên quan mạnh mẽ đến hiệu quả tư pháp và một cách để Trung Quốc cải thiện hiệu quả tư pháp là xây dựng quy trình nhanh bên cạnh quy trình rút gọn, phân phối các VAHS một cách hiệu quả hơn vào các thủ tục xét xử khác nhau. Chúng ta có thể coi quy trình nhanh là một phần mở rộng của tinh thần thỏa thuận nhận tội. Điều 174 quy định về kiểu một bên của “hợp đồng” thú tội, bản khai thú tội. Trong khi bản khai đại diện cho công việc của bị cáo và luật sư thì khuyến nghị kết án đại diện cho kết luận và đánh giá của kiểm sát viên về vụ án (Điều 176). Có thể nói, các điều 172, 173 là quy định thủ tục cho kiểm sát viên, còn các điều 174, 176 là yêu cầu vật chất.
+ Giai đoạn thứ hai của thủ tục chính là về cấu trúc của phiên tòa, được đề cập tại các điều 183, 190, 201. Trong đó, Điều 183 quy định số lượng thẩm phán, hội thẩm cho các phiên tòa rút gọn và nhanh (chỉ một thẩm phán xuất hiện, không cần hội thẩm). Điều 190 quy định rằng, thẩm phán phải thông báo cho bị cáo về quyền của họ trong phiên tòa thỏa thuận nhận tội.
Một điểm quan trọng cần lưu ý là bị cáo trong thỏa thuận nhận tội vẫn có quyền kháng cáo. Để giải thích điều này - tương tự như đàm phán thú tội ở Hoa Kỳ, để đạt được thỏa thuận với kiểm sát viên, bị cáo cần chấp nhận các cáo buộc và khuyến nghị kết án. Sự khác biệt là bị cáo trong thỏa thuận nhận tội vẫn có quyền kháng cáo nếu họ cảm thấy quyền lợi pháp lý của mình bị vi phạm trong quá trình thỏa thuận nhận tội. Do đó, mặc dù việc kháng cáo có thể không được hoan nghênh trong quá trình đàm phán thú tội, quyền kháng cáo không bị ngăn cấm theo luật pháp. Đây là một điểm khác biệt rõ ràng so với quy trình ở Hoa Kỳ. Điều 201 quy định về quyền hạn của thẩm phán.
+ Giai đoạn cuối cùng điều chỉnh quy trình xét xử nhanh (từ Điều 222 đến Điều 226). Các phiên tòa nhanh có thể được coi là phiên bản đơn giản hóa hơn của các phiên tòa rút gọn. Điều 222 quy định, nếu mức án tiềm năng dưới 03 năm, có thể bắt đầu xét xử nhanh theo đề nghị của kiểm sát viên. Điều này cũng xác nhận rằng, phiên tòa nhanh chỉ có thể bắt đầu khi bị cáo đã thú tội và đồng ý áp dụng quy trình nhanh. Điều 223 liệt kê những tình huống loại trừ phiên tòa nhanh. Một điểm quan trọng trong điều khoản này là “vụ án có tác động xã hội lớn”. Một phiên tòa nhanh chỉ yêu cầu một thẩm phán nhưng trong những vụ án có tác động lớn, cần nhiều người hơn (nên sử dụng phiên tòa rút gọn hoặc thậm chí thông thường) để đạt được kết quả công bằng và đáp ứng tốt hơn với công chúng.
Điều 224 là quy định về một trong những điểm khác biệt chính giữa thỏa thuận nhận tội và đàm phán thú tội ở Hoa Kỳ, đó là yêu cầu bắt buộc của phiên tòa ở Trung Quốc: “Phải nghe ý kiến của luật sư bào chữa và ý kiến cuối cùng của bị cáo”. Mục đích của điều khoản này là bảo đảm sự tự do của bị cáo khi thú tội một lần nữa, trước Tòa án. Thẩm phán cần loại trừ, càng nhiều càng tốt, khả năng thú tội do tra tấn hoặc thỏa thuận phi pháp giữa luật sư và kiểm sát viên. Điều 225 quy định thời hạn của một phiên tòa nhanh. Điều 226 nhấn mạnh một điểm quan trọng về công bằng, nếu “Tòa án phát hiện rằng bị cáo thú tội và chấp nhận hình phạt trái với ý muốn của mình, một phiên tòa mới sẽ được tổ chức”. Điều này có thể hiểu là một dấu hiệu cho thấy, Trung Quốc đang tập trung hơn vào quyền lợi của bị cáo.
Như vậy, việc nghiên cứu và áp dụng hệ thống thỏa thuận nhận tội trong TPHS Trung Quốc theo đánh giá là một sự đổi mới quan trọng của TPHS xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc, làm phong phú thêm “giải pháp Trung Quốc” về TPHS và xử lý tội phạm. Nó có ý nghĩa lớn trong việc cải thiện hệ thống TTHS của Trung Quốc, trừng phạt tội phạm kịp thời và hiệu quả theo luật pháp, tăng cường bảo vệ tư pháp về quyền con người, tối ưu hóa phân bổ nguồn lực tư pháp, giải quyết mâu thuẫn xã hội, thúc đẩy hòa hợp xã hội và hiện đại hóa hệ thống quản lý quốc gia và khả năng quản lý. Quá trình này được thiết lập không phải thông qua việc tạo ra một chương mới mà thông qua việc vận hành các phần mới khác nhau của Bộ luật Tố tụng hình sự[5].
2. Khuyến nghị đối với Việt Nam
Hiện nay, ngoài Trung Quốc, ở nhiều quốc gia trên thế giới có quy định về thỏa thuận nhận tội, theo đó, pháp luật cho phép người phạm tội (có thể người đại diện là luật sư bào chữa) và Nhà nước mà đại diện là cơ quan tiến hành tố tụng (trực tiếp là công tố viên) được quyền thỏa thuận với nhau để bị cáo nhận tội đổi lại để có kết quả giải quyết vụ án có lợi cho mình.
Pháp luật Việt Nam chưa có quy định thỏa thuận nhận tội, tuy nhiên, hiện nay, đã có quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, cho phép có sự thỏa thuận giữa người phạm tội và người bị hại trong một số vụ án thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Ngoài ra, quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như người phạm tội tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tích cực phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phát hiện xử lý tội phạm… Đây là những cơ sở quan trọng trong chính sách xử lý người phạm tội để có thể tạo tiền đề nghiên cứu cơ chế thỏa thuận nhận tội từ kinh nghiệm của các nước.
Hệ thống TPHS Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc về tổ chức, hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và chính sách khoan hồng đối với những người tự nguyện khai báo, nhận tội. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, số lượng các VAHS tăng lên với tính chất ngày càng phức tạp đang tạo ra những áp lực lên hệ thống TPHS. Việc nghiên cứu kinh nghiệm các quốc gia trên thế giới, trong đó có Trung Quốc là thực sự cần thiết và cấp bách nhằm nâng cao hiệu quả công tác tư pháp theo hướng giảm chi phí, thời gian và nhân sự cho các cơ quan tư pháp, đồng thời, có thêm cơ chế để giải quyết các VAHS trên cơ sở học tập, rút kinh nghiệm tổ chức triển khai chế định này từ các quốc gia./.
NCS. ThS. Đinh Công Tuấn & Nguyễn Thị Hoàng Sang
Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
Ảnh: Internet
[1]. Lu, Yuguang (2021), “Nghiên cứu so sánh về hệ thống khoan hồng của Trung Quốc”, https://www.repository.law.indiana.edu/etd/, truy cập ngày 10/6/2024.
[2]. Hu, Y. T. (2018), Interpretation and Application of Chinese Plea Bargaining. Beijing: People’s Court Press, tr. 271.
[3]. Hu, Y. T. (2018), tlđd, tr. 274.
[4]. Shi, Zh. K. (2020b), Several Indexes on Procedural Supervision increase to Provide Legal Protection. Beijing: Daily of Prosecution.
[5]. Lu, Yuguang (2021), tlđd, tr. 21 - 28.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 410), tháng 8/2024)