Thứ năm 19/06/2025 14:23
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Chính quyền địa phương Nhật Bản - Có thể nghiên cứu, tham khảo cho Việt Nam

Nhật Bản một cường quốc của thế giới về nhiều mặt, góp phần vào sự phát triển của đất nước mặt trời mọc có nhiều yếu tố, trong đó tổ chức bộ máy nhà nước có vai trò quan trọng. Mô hình tổ chức bộ máy nhà nước Nhật Bản với những nét tương đồng với thế giới, nhưng bên cạnh những tinh hoa mà người Nhật đã chắt lọc, du nhập vào, họ còn xây dựng nền thể chế nhà nước có nhiều nét đặc thù phù hợp với văn hóa, đặc điểm của đất nước, con người Nhật. Chính nhờ sự hỗn hợp, pha trộn tài tình này, nhà nước Nhật Bản đã thúc đẩy sự phát triển thịnh vượng. Việt Nam và Nhật Bản có nhiều sự khác biệt lớn, tuy nhiên giữa hai dân tộc, quốc gia luôn có những nét tương đồng như: Cùng nằm khu vực Đông Á, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố văn hóa tương tự nhau... Với việc tìm hiểu về chính quyền địa phương Nhật Bản, qua đó tìm ra những yếu tố có thể áp dụng trong tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam.

1. Chính quyền địa phương Nhật Bản

Trước năm 1945 cơ chế Nhà nước - chính trị của Nhật, có thể coi là một hệ thống quan liêu - tập trung hóa quản lý địa phương với vai trò trung tâm của Nhật Hoàng tri phối mọi mặt trong hoạt động chính quyền địa phương thông qua các quan chức do mình bổ nhiệm, về cơ bản không có tự trị cho các địa phương. Sự thay đổi thể chế nhà nước sau Đại chiến thế giới thứ 2 đã chuyển Nhật đã từ một chế độ quân chủ nhị nguyên kiểu Nhật Bản trở thành quân chủ lập hiến Với việc Hiến pháp năm 1946 và Luật về tự trị phương năm 1947 đã đánh dấu xu hướng phi tập trung hóa quản lý địa phương và đây là một trong các đặc điểm nổi bật trong tổ chức chính quyền địa phương của Nhật. Hiến pháp và Luật về tự trị phương đã củng cố nguyên tắc tự quản địa phương cùng với các nguyên tắc chủ quyền nhân dân, tính tối cao của nghị viện là cơ sở cho chế độ Nhà nước sau chiến tranh của Nhật Bản.

Đạo luật về tự quản địa phương bao gồm trên 300 điều. Song song với đạo luật này còn có hiệu lực vài chục các quyết định quy phạm khác - các đạo luật, các sắc lệnh Chính phủ, các quyết định của các bộ khác nhau và các nha.

Sự tự trị của những c­ư dân được ghi nhận ở trong đạo luật về tự quản địa phương thông qua trưng cầu dân ý ở phạm vi địa phương trên cơ sở một bộ phận nhất định của dân địa phương có đơn thỉnh cầu về việc thông qua, bãi bỏ hoặc sửa đổi những nghị định địa phương, về việc thực hiện thanh tra hoạt động của các hội nghị cộng đồng địa phương, về việc miễn nhiệm những người đứng đầu các cơ quan địa phương và các người có chức vụ khác[1].

Mức độ thực tế của sự tự quản của các công xã địa phương được xác định bởi cơ chế phức tạp của sự tác động qua lại của chúng với trung ương. Bộ về các vấn đề tự quản được thành lập vào năm 1960 là cơ quan chuyên trách điều phối sự phối hợp hoạt động của các cơ quan trung ương và địa phương và cũng như của các cơ quan địa phương với nhau. Với yêu cầu luôn đề cao sự gọn nhẹ trong bộ máy, việc thành lập một cơ quan cấp Bộ chuyên trách phản ánh sự quan tâm của Nhà nước Nhật với vấn đề này.

Ở Nhật Bản đã hình thành một hệ thống hai cấp của tự quản địa phương (cơ quan tỉnh và thị chính). Cơ quan tỉnh và thị chính là cơ quan thông thường của tự quản địa phương song song với chúng thì có thể được thành lập các cơ quan đặc biệt của tự quản địa phương - những quận đặc biệt ở thủ đô, những liên hiệp phát triển quận, các tổ hợp các cơ quan tự quản địa phương, những vùng tài chính - công nghiệp.

Hệ thống pháp luật Nhật Bản quy định những tiêu chí khúc triết để phân định những vùng thành phố và nông thôn theo đạo luật về tự quản địa phương (Điều 8) để nhận được quy chế của thành phố thì điểm c­ dân cần phải thỏa mãn các yêu cầu sau:

- Dân số cần phải hơn 50 nghìn người.

- Hơn 60% các công trình xây dựng nhà ở cần phải ở trong phần trung tâm của điểm dân cư­.

- Hơn 60% dân cư phải hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại hoặc những lĩnh vực khác tiêu biểu đối với thành phố.

- Điểm dân cư cần phải có những công trình xây dựng thành phố và những dịch vụ, danh mục của chúng được xác định bởi các quyết định của các cơ quan tỉnh.

Hiến pháp 1946 và Luật về tự quản địa phương 1947 ghi nhận thẩm quyền của các cơ quan địa phương. Trong Hiến pháp, Điều 94 quy định: “Các cơ quan quyền lực công địa phương có quyền quản lý những tài sản của mình, tiến hành quản lý hành chính, chúng có thể ban hành các nghị định của mình trong phạm vi của luật”.

Cơ quan địa phương thực hiện hoạt động gồm 03 nhóm chức năng cơ bản:

- Những chức năng mang tính chất địa phương thuần túy.

- “Các quyền hạn hành chính” chúng được hiểu là các chức năng mang tính địa phương, nhưng đòi hỏi sự cưỡng chế Nhà nước trong việc thực hiện chúng và các chế tài trong trường hợp vị phạm chúng từ phía các công dân.

- Những chức năng được các cơ quan trung ương ủy quyền. Khi thực hiện các chức năng này những người đứng đầu của cơ quan hành chính địa phương chịu trách nhiệm trước các Bộ trưởng tương ứng của Nội các.

Đến năm 1989 thì danh mục các việc thuộc thẩm quyền của cơ quan Nhà nước được trao cho tỉnh trưởng thực hiện bao gồm 126 điểm, cho thị trưởng những thành phố lớn 28 điểm, cho người đứng đầu các thành phố thị trấn, điểm dân cư­ và các làng xã 52 điểm. Việc thực hiện các công việc này cần phải được cung cấp tài chính từ ngân sách Nhà nước. Như vậy, các tỉnh trưởng, thị trưởng và xã trưởng… là các cơ quan tự quản địa phương, đồng thời hoạt động với tư cách là cơ quan của Nhà nước.

Mỗi đơn vị hành chính - lãnh thổ trực tiếp được hình thành bởi các cử tri một hội nghị hàng tỉnh (thành phố, thị trấn, làng xã). Những hội nghị địa phương được bầu ra với thời hạn 04 năm. Trong đạo luật tự quản địa phương quy định cấp thị trấn, thị xã và làng xã có thể thay đổỉ các hội nghị địa phương bằng hình thức như đại hội chung của những người sống chung trong thị trấn hoặc làng xã (điều này thể hiện sự dân chủ trực tiếp), bên cạnh đó là các hội nghị mang tính chất đại diện.

Thành phần của hội nghị địa phương phụ thuộc vào số lượng dân cư­. Hội nghị hàng tỉnh bao gồm từ 40 người đến 120 người; hội nghị thành phố 30 người đến 100 người thị trấn và làng xã từ 12 người đến 30 người.

Người đứng đầu của cơ quan hành chính địa phương ở tỉnh là tỉnh trưởng, ở các thành phố và thị trấn là thị trưởng ở các làng xã là các xã trưởng. Tất cả những người có chức vụ này được bầu trực tiếp bởi dân cư sống ở trong đơn vị lãnh thổ đó với thời hạn 04 năm.

Người đứng đầu cơ quan hành chính địa phương ngoài các quyền hạn mang tính chấp hành - điều hành còn có quyền đ­a vào hội nghị địa phương xem xét các dự án quyết định mang tính chất chung, có thể phủ quyết đối với các quyết định của hội nghị (sự phủ quyết này có thể được vượt qua nếu như hội nghị thông qua lại quyết định bởi đa số 2/3) giải tán hội nghị trước thời hạn. Nó được trao quyền đình chỉ hoặc là không thực hiện các hành động của các nha tổng cục trung ương trên lãnh thổ của mình… và những quyền hạn khác.

Chức năng chấp hành trong cơ quan địa phương được hoàn thành bởi các Ủy ban hành chính khác nhau - về giáo dục, nhân sự, về an ninh an toàn xã hội, về lao động… Các ban hành chính này có tính độc lập lơn, điều đó được đảm bảo bởi trình tự hình thành chúng. Chúng được bổ nhiệm bởi người đứng đầu của cơ quan hành chính địa phương với sự thỏa thuận của hội nghị địa phương hoặc được bầu bởi hội nghị địa phương.

Luật về tự quản địa phương quy định rằng số các sở đối với các tỉnh thủ đô và đối với các tỉnh còn lại phụ thuộc vào số lượng cư­ dân. Trong đạo luật chứa đựng một sự phân định mẫu các chức năng giữa các bộ phận cấu thành và những người có chức vụ của bộ máy chấp hành ở địa phương.

Bảo đảm quan trọng cho sự tự trị của quyền lực địa phương là việc tách hoạt động công vụ địa phương với tư cách là một dạng độc lập của hoạt động công vụ.

2. Một số nhận xét

Có thể thấy rõ tính tự quản (tự trị) trong tổ chức chính quyền địa phương ở Nhật Bản khác so với nhiều nước trên thế giới, đó là sự tự quản có giới hạn. Điều này được thể hiện ở nguyên tắc tự trị 30%[2] thể hiện sự tự trị không đầy đủ, nó mang màu sắc của sự tự quản, là sự tự do của địa phương có giới hạn của sự quản lý trung ương.

Tuy vậy, Nhật Bản rất chú trọng đến vai trò của chính quyền địa phương được tự quyết những vẫn đề gắn với lợi ích địa phương như đường xá, bệnh viện, trường học... Những lĩnh vực quan trọng hơn như công an, giáo dục ngược lại bị sự tri phối và kiểm soát chặt chẽ từ trung ương và cụ thể là từ các Bộ Công an và Bộ Giáo dục

Một điểm lớn đó là các công việc ủy quyền, đó là các công việc thuộc thẩm quyền của trung ương nhưng giao địa phương thực hiện. Trong quá trình thực hiện công việc người đứng đầu địa phương phải chịu trách nhiệm trước Bộ, Nội các. Hình thức này xu hướng ngày càng tăng, Nhà nước trung ương Nhật Bản ngày càng ủy thác nhiều công việc xuống địa phương và đạt hiệu quả cao.

Theo tác giả, trong bối cảnh hiện nay ở nước ta, việc tăng cường vai trò tự chủ của địa phương là rất cần thiết, chúng ta có thể tham khảo Nhật Bản, nghiên cứu, cân nhắc, lựa chọn giao cho địa phương quyền quyết định về những vấn đề gắn với địa phương, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống cư dân, đồng thời, có các biện pháp để phát huy vai trò giám sát của nhân dân./.

ThS. Lê Ngọc Hưng

Học viện Hành chính Quốc gia

Ảnh: internet


[1] Tsuneo Inako “Tìm hiểu Pháp luật Nhật Bản” Nxb. Khoa học Xã hội 1993, tr. 226.

[2] Tsuneo Inako “Tìm hiểu Pháp luật Nhật Bản” Nxb. Khoa học Xã hội 1993, tr. 227.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Hiện nay, các tội phạm sử dụng công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội diễn ra ngày càng phổ biến. Một trong những công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội, nguy hiểm, gây ra thiệt hại lớn cho xã hội được các tội phạm sử dụng nhiều nhất, chính là sử dụng mã độc tống tiền (Ransomware). Vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật để kịp thời phòng, chống những tác hại của Ransomware là thực sự cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Bài viết nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật của Hoa Kỳ và Trung Quốc, từ đó, kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Pháp luật về hòa giải thương mại của Việt Nam và Ấn Độ - Góc nhìn so sánh và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Việt Nam và Ấn Độ đều có khung pháp lý điều chỉnh hoạt động hòa giải thương mại, nhưng có sự khác biệt đáng kể về cơ chế vận hành và thực thi. Bài viết sử dụng phương pháp so sánh luật học để phân tích và đối chiếu quy định pháp luật giữa hai quốc gia, đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp luật về hòa giải thương mại tại Việt Nam.

Vai trò của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp và giá trị tham khảo cho Việt Nam

Nội các Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong quá trình lập pháp với quyền đề xuất hầu hết các dự thảo luật trình lên Quốc hội. Bài viết nghiên cứu, phân tích vị trí, vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp, từ sáng kiến đến soạn thảo, đánh giá và thông qua luật. Đồng thời, so sánh với quy trình lập pháp tại Việt Nam, chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt quan trọng. Từ đó, đề xuất các giá trị mà Việt Nam có thể tham khảo nhằm nâng cao vị trí và vai trò của Chính phủ trong quá trình xây dựng pháp luật.

Hình phạt tiền - Dưới góc nhìn so sánh pháp luật hình sự Việt Nam với Liên bang Úc và kinh nghiệm cho Việt Nam

Hình phạt tiền ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong hệ thống hình phạt của nhiều quốc gia, kể cả Việt Nam và Liên bang Úc, như một biện pháp hiệu quả để xử lý các hành vi phạm tội, đặc biệt là các tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm do pháp nhân thực hiện. Bài viết phân tích quy định pháp luật hình sự về hình phạt tiền của Việt Nam và Liên bang Úc, làm rõ sự khác biệt về đối tượng pháp nhân chịu trách nhiệm, phương pháp xác định mức phạt, các yếu tố Tòa án cân nhắc và cơ chế thi hành; từ đó, rút ra một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo đối với Việt Nam.

Kết đôi dân sự theo pháp luật của Pháp và gợi mở quy chế pháp lý cho cặp đôi không muốn kết hôn tại Việt Nam

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã ghi nhận và thiết lập quy định liên quan đến vấn đề chung sống như vợ chồng, bởi đây là hiện tượng khách quan và phổ biến trong xã hội. Bộ luật Dân sự Pháp đã thiết kế chế định kết đôi dân sự để điều chỉnh mối quan hệ giữa các cặp đôi chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn. Bài viết phân tích chế định kết đôi dân sự ở Pháp, thực trạng chung sống như vợ chồng ở Việt Nam và gợi mở về một số thay đổi của chính sách, pháp luật hôn nhân và gia đình tại Việt Nam.
Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh là một cơ chế pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của cổ đông và công ty. Hình thức kiện này đã hình thành từ rất lâu tại Anh và được xây dựng dựa trên nền tảng thông luật. Ở Việt Nam, kiện phái sinh mới chỉ được ghi nhận thông qua các quy định pháp luật trong thời gian gần đây. Bài viết phân tích các quy định pháp lý về hình thức kiện phái sinh tại Vương quốc Anh, đánh giá những ưu điểm, hạn chế của cơ chế này, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện cơ chế kiện phái sinh, phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam.

Xây dựng mô hình Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ tại Việt Nam - Kinh nghiệm từ Nhật Bản và Vương quốc Anh

Bài viết so sánh mô hình Tòa Thượng thẩm sở hữu trí tuệ chuyên sâu Nhật Bản và hệ thống Tòa án sở hữu trí tuệ xét xử linh hoạt ở Anh, từ đó, rút ra khuyến nghị cho Việt Nam, đề xuất thành lập Tòa án chuyên biệt về sở hữu trí tuệ tại các trung tâm kinh tế lớn, kết hợp mô hình xét xử phù hợp để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả.

Thuế carbon và cơ chế điều chỉnh biên giới carbon - Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý khung pháp lý cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada trong thiết kế và thực thi chính sách định giá carbon, đồng thời, chỉ ra những khoảng trống của pháp luật Việt Nam, đặc biệt, về Hệ thống đo lường, giám sát phát thải và Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon. Trên cơ sở đó, đề xuất lộ trình xây dựng luật thuế carbon, tích hợp Hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định, Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon nội địa và quy trình quản lý thuế minh bạch, giúp Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, bảo vệ doanh nghiệp và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ - Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu về trí tuệ nhân tạo (AI), sự cần thiết ứng dụng AI trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) nhìn từ kinh nghiệm của một số quốc gia, khu vực dẫn đầu trong việc ứng dụng AI vào bảo hộ quyền SHTT như Hoa Kỳ, châu Âu, Trung Quốc… từ đó, nghiên cứu đưa ra một số gợi mở cho việc ứng dụng AI trong việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến việc ứng dụng AI vào hoạt động bảo hộ quyền SHTT.

Chuẩn hợp đồng (Quasi contract) - Cơ sở pháp lý và đề xuất áp dụng tại Việt Nam

Bài viết phân tích khái niệm chuẩn hợp đồng (Quasi contract) trong hệ thống pháp luật Common Law và sự tương đồng với một số quy định trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, đồng thời đề xuất việc nghiên cứu lựa chọn có chọn lọc và áp dụng Quasi contract vào hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp và bảo vệ quyền lợi các bên.

Bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo - Nhìn từ thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết phân tích chính sách bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư liên quan đến trí tuệ nhân tạo (AI) ở một số quốc gia trên thế giới, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam về vấn đề này.

Cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba tại Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho Việt Nam

Bài viết phân tích cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba (cơ chế Safe Harbor) trong luật pháp Hoa Kỳ và Việt Nam, từ đó, đưa ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật liên quan đến các trường hợp miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet.

Xây dựng luật thuế các-bon - Kinh nghiệm Singapore và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Thuế các-bon là một công cụ tài chính quan trọng nhằm giảm phát thải khí nhà kính bằng cách định giá lượng khí CO₂ thải ra môi trường. Việc áp dụng thuế này không chỉ giúp kiểm soát ô nhiễm mà còn tạo nguồn thu để đầu tư vào các giải pháp phát triển bền vững. Trong bối cảnh đã có nhiều quốc gia xây dựng, ban hành và áp dụng thuế các-bon, Việt Nam cần cân nhắc xây dựng khung pháp lý phù hợp cho việc áp dụng thuế các-bon trong nước. Singapore là một trong những quốc gia đi đầu ở Đông Nam Á trong xây dựng, áp dụng pháp luật về thuế các-bon với nhiều điểm nổi bật mà Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc, phù hợp với thực tế của Việt nam. Xuất phát từ đó, bài viết làm rõ một số kinh nghiệm nổi bật của Singapore về xây dựng Luật thuế các-bon, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích quy định về xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 ngày 23/10/2024 của Nghị viện và Hội đồng châu Âu về việc cải thiện điều kiện làm việc đối với công việc nền tảng (Chỉ thị (EU) 2024/2831) và thực trạng xác định tình trạng lao động tại Việt Nam hiện nay, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Miễn trừ thông báo tập trung kinh tế - Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tập trung kinh tế là quá trình giảm số lượng doanh nghiệp độc lập trên thị trường thông qua sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh nhằm mở rộng quy mô và nâng cao khả năng cạnh tranh. Hành vi này giúp tối ưu nguồn lực nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ hạn chế cạnh tranh, dẫn đến độc quyền, ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường và người tiêu dùng. Pháp luật cạnh tranh của Mỹ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản kiểm soát tập trung kinh tế qua quy định về thông báo giao dịch và các trường hợp miễn trừ thông báo đối với hành vi tập trung kinh tế ít tác động đến thị trường. Từ kinh nghiệm của những quốc gia này về các trường hợp được miễn thông báo tập trung kinh tế, nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm