Thứ ba 08/07/2025 10:49
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Phát triển thị trường dịch vụ pháp lý trong Liên minh châu Âu và giá trị tham khảo cho Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết cung cấp một bức tranh tổng quan về thị trường dịch vụ pháp lý tại các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu (EU) và đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam trong phát triển thị trường dịch vụ pháp lý.

Abstract: The article provides an overview of the legal services market in the European Union (EU) member states and makes some recommendations for Vietnam in developing the legal services market.

1. Đặt vấn đề

Trong hoạt động kinh doanh và thương mại, hàng hóa và dịch vụ là hai đối tượng chính được trao đổi. Trong khi hàng hóa hữu hình, dịch vụ lại vô hình và khó được định nghĩa một cách chính xác dưới góc độ pháp lý. Để xây dựng cách hiểu thống nhất trên thế giới về “hàng hóa và dịch vụ”, Liên Hợp quốc đã công bố Bảng phân loại tạm thời các hàng hóa và dịch vụ chủ yếu (Provisional Central Product Classification - PCPC) năm 1991 và Bảng phân loại các hàng hóa và dịch vụ chủ yếu (Central Product Classification - CPC) năm 1998[1]. PCPC liệt kê các nhóm dịch vụ gồm: Dịch vụ thương mại, khách sạn và nhà hàng; dịch vụ vận tải, kho bãi và liên lạc; dịch vụ kinh doanh, nông nghiệp, khai khoáng và chế tạo và dịch vụ cộng đồng, xã hội và cá nhân. CPC mở rộng và sắp xếp lại thành các nhóm: Dịch vụ xây dựng; dịch vụ thương mại phân phối, lưu trú, phục vụ ăn uống, vận tải, phân phối điện, ga và nước; dịch vụ tài chính và dịch vụ có liên quan; dịch vụ bất động sản; dịch vụ cho thuê; dịch vụ kinh doanh và sản xuất; dịch vụ cộng đồng, xã hội và cá nhân[2]. Thị trường dịch vụ pháp lý bao gồm việc mua bán các dịch vụ liên quan đến luật pháp và hàng hóa liên quan bởi các thực thể (tổ chức, thương nhân độc quyền và công ty hợp danh) tư vấn cho khách hàng (cá nhân, doanh nghiệp hoặc các tổ chức khác) về các quyền và trách nhiệm pháp lý của họ, đồng thời đại diện cho khách hàng trong các vụ án dân sự hoặc hình sự, giao dịch kinh doanh và các vấn đề khác khi khách hàng cần tư vấn pháp lý, hỗ trợ. Các nhà cung cấp dịch vụ pháp lý bảo đảm nhận các quy trình mà nguồn nhân lực là yếu tố đầu vào chính. Họ cung cấp kiến thức và kỹ năng cho nhân viên của mình, thường là trên cơ sở phân công, trong đó một cá nhân hoặc một nhóm chịu trách nhiệm cung cấp dịch vụ cho khách hàng[3].

Quy mô thị trường dịch vụ pháp lý toàn cầu đạt giá trị gần 713,12 tỷ đô la vào năm 2021, đã tăng với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm là 2,52% kể từ năm 2016. Thị trường dự kiến sẽ tăng từ 713,12 tỷ đô la vào năm 2021 lên 998,73 tỷ đô la vào năm 2026 với mức tăng 6,97%. Sau đó, thị trường dự kiến sẽ tăng trưởng với tốc độ là 5,60% từ năm 2026 và đạt 1311,63 tỷ USD vào năm 2031[4]. Tăng trưởng trong giai đoạn lịch sử là kết quả của tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ ở các thị trường mới nổi, sự gia tăng các sáng kiến của Chính phủ và bãi bỏ quy định lạc hậu của pháp luật. Yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng trong giai đoạn lịch sử là đội ngũ pháp chế nội bộ gia tăng áp lực lên các công ty luật truyền thống, tác động của Covid-19, tình trạng thiếu kỹ năng và thiếu minh bạch. Trong tương lai, nhu cầu ngày càng tăng đối với các dịch vụ pháp lý dân sự, sự gia tăng tội phạm lừa đảo và các tội phạm kinh tế khác cũng như nhu cầu ngày càng tăng đối với các lĩnh vực thực hành giao dịch sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng. Các yếu tố có thể cản trở sự phát triển của thị trường dịch vụ pháp lý trong tương lai bao gồm chi phí tăng và tỷ suất lợi nhuận giảm cũng như các vấn đề về bảo mật dữ liệu[5].

2. Phát triển thị trường dịch vụ pháp lý trong khuôn khổ châu Âu

2.1. Về điều kiện để thực hành nghề luật

Những người hành nghề luật bắt buộc phải có giấy phép hành nghề ở hầu hết các quốc gia châu Âu (EU). Các trường hợp ngoại lệ là Đan Mạch, Phần Lan, Hà Lan và Thụy Điển, nơi hệ thống chứng nhận được sử dụng thay thế. Ở một số quốc gia, các nhiệm vụ khác nhau được giao cho các nhóm chuyên gia khác nhau trong nghề. Ví dụ, trong lịch sử ở Anh, Ireland, Bắc Ireland và xứ Wales, các luật sư tranh tụng thường đại diện cho các cá nhân trước Tòa (đặc biệt là tại các Tòa án cấp cao hơn ở Vương quốc Anh). Luật sư tư vấn đóng vai trò trung gian giữa khách hàng và luật sư. Scotland có một hệ thống tương tự với các luật sư bào chữa thay vì luật sư tranh tụng. Ngoài ra, luật sư vừa tư vấn vừa bào chữa được phép thực hiện cả hai chức năng. Tuy nhiên, sự khác biệt này đang dần biến mất và đã biến mất hoàn toàn ở Gibraltar. Tây Ban Nha phân biệt giữa các công việc chuyên môn liên quan đến mối quan hệ với khách hàng (ví dụ: Tư vấn cho khách hàng và đại diện ở Tòa án) và những công việc liên quan đến các khía cạnh thủ tục thuần túy (ví dụ: Nộp hồ sơ, giấy tờ và kiểm tra tình trạng vụ việc). Quan hệ khách hàng được luật sư bào chữa đảm nhận và các vấn đề về thủ tục được tiến hành bởi các luật sư tư vấn. Trong hầu hết các trường hợp, khách hàng ở Tây Ban Nha sẽ cần phải thuê cả luật sư bào chữa và luật sư tư vấn. Hai quốc gia cuối cùng có phân chia nghề luật sư theo chức năng là Bồ Đào Nha và Malta. Luật sư tư vấn có thể đại diện cho khách hàng tại các Tòa án cấp dưới ở Bồ Đào Nha nhưng không được phép tư vấn pháp lý hoặc kháng cáo quyết định của Tòa án, chỉ luật sư bào chữa mới được phép thực hiện. Tương tự ở Malta, nơi trợ lý luật sư bào chữa thực hiện vai trò như của luật sư tư vấn ở Bồ Đào Nha. Giống như ở Tây Ban Nha, khách hàng ở Bồ Đào Nha và Malta thường cũng sẽ cần nhận được dịch vụ của cả hai chuyên gia pháp lý.

Các yêu cầu để có thể thực hành nghề luật hoặc để sử dụng chức danh chuyên gia pháp lý khác nhau đáng kể giữa các quốc gia thành viên. Chúng thường bao gồm: Bằng đại học luật, một kỳ thi học thuật hoặc sơ khảo, một thời gian đào tạo hoặc học nghề, kỳ thi đầu vào[6].

2.2. Thiết lập các yêu cầu gia nhập nghề luật sư

Trong nhiều trường hợp, hiệp hội nghề nghiệp pháp lý quốc gia (hoặc đoàn luật sư) tự chủ trong việc đặt ra các yêu cầu để gia nhập nghề. Trong các trường hợp khác, một tổ chức khác (Chính phủ, trường đại học hoặc cả hai) chịu trách nhiệm. Trong những trường hợp khác nữa, trách nhiệm thiết lập các yêu cầu đầu vào dường như được chia sẻ giữa các hiệp hội nghề nghiệp và một tổ chức khác.

Đối với gần hai phần ba số thành viên EU (17 quốc gia), đoàn luật sư hoặc hiệp hội nghề nghiệp đóng vai trò lớn nhất và quan trọng nhất trong việc thiết lập và kiểm tra các yêu cầu để một ứng viên gia nhập nghề hoặc được phép sử dụng chức danh của nghề luật sư. Ở Hà Lan và Pháp, các trường đại học chịu trách nhiệm chính trong việc chấm điểm và chuẩn bị các kỳ thi. Ở Đức, Chính phủ chủ yếu đặt ra các tiêu chuẩn, quản lý kỳ thi và xác định các chủ đề chính sẽ được đưa vào bài kiểm tra. Ở Malta, trách nhiệm được chia sẻ giữa Chính phủ và Đại học Malta. Một số yêu cầu do trường đặt ra nhưng mỗi ứng viên cũng phải xin cấp phép đặc biệt từ Tổng thống Malta. Đối với mỗi quốc gia còn lại, quyền hạn được chia sẻ giữa nhóm các hiệp hội nghề nghiệp và các trường đại học hoặc Chính phủ.

2.3. Tự do di chuyển và ảnh hưởng đến thị trường dịch vụ pháp lý

Một trong những mục tiêu của Ủy ban châu Âu là cho phép người dân và dịch vụ di chuyển tự do. Điều này đã dẫn đến xu hướng hướng tới một thị trường lao động chung châu Âu và sự thống nhất của các ngành luật. Tuy nhiên, sự hòa nhập trong nghề luật diễn ra rất chậm do sự khác biệt về cách tổ chức phân công (ví dụ: Luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn ở Anh và Ireland), hệ thống pháp luật và tiền lệ lịch sử. Theo Chỉ thị 89/48/EEC của Ủy ban châu Âu, bằng cấp nghề luật học trong 03 năm do một thành viên EU cấp phải được tất cả các thành viên EU khác công nhận. Các quốc gia thành viên cũng được phép yêu cầu “kiểm tra năng khiếu” hoặc “thời gian thích ứng” trong một khoảng thời gian xác định trước khi cho phép luật sư EU hành nghề. Các quốc gia cũng có thể yêu cầu về giấy tờ và/hoặc ngôn ngữ bổ sung. Tám trong số các thành viên EU trong một số trường hợp có thể yêu cầu các luật sư EU phải trải qua một “thời kỳ thích ứng” trước khi nhận được giấy phép hoặc chức danh. Các khoảng thời gian này thường là 03 năm, tuy nhiên, Ireland quy định chỉ 01 năm đối với các luật sư EU muốn hành nghề luật sư tranh tụng.

Các bài kiểm tra năng khiếu thường được yêu cầu nhiều hơn đối với các luật sư tiềm năng (17 quốc gia). Tại 05 quốc gia (Cộng hòa Séc, Ireland, Ý, Hà Lan và một số nơi tại Vương quốc Anh), các luật sư tiềm năng được lựa chọn hoặc đáp ứng yêu cầu về kinh nghiệm hoặc vượt qua bài kiểm tra. Bài kiểm tra có thể là viết, nói hoặc đôi khi cả hai (các luật sư tranh tụng tiềm năng ở Anh, xứ Wales và Ireland có thể phải vượt qua bài kiểm tra năng khiếu viết và nói trước khi nhận được giấy phép). Một số quốc gia quy định rõ ràng các ngành nghề cụ thể (thậm chí các quốc gia cụ thể) mà luật sư có thể có được giấy phép hoặc chức danh và sau đó tự do hành nghề. Ví dụ: Bồ Đào Nha tuyên bố rõ ràng rằng, họ công nhận các danh hiệu và giấy phép từ Áo, Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ireland, Ý, Luxembourg, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thụy Điển và Vương quốc Anh. Luật sư từ các quốc gia này có thể hành nghề luật sư sau khi đăng ký với Hiệp hội Luật sư Bồ Đào Nha. Đối với các luật sư hành nghề tại các nước EU khác, quá trình hành nghề tại Bồ Đào Nha khó khăn hơn.

2.4. Gia nhập thị trường dịch vụ pháp lý[7]

Ở hầu hết các chủ quyền tài phán của EU, các quy tắc cấp phép và đăng ký quy định việc tiếp cận các ngành nghề luật, bảo vệ các chức danh nghề nghiệp liên quan đến nghề luật và đại diện trước Tòa án. Mức độ hạn chế khác nhau giữa các chủ quyền tài phán. Ví dụ, ở Phần Lan và Thụy Điển, không có giới hạn nào về việc ai có thể tư vấn pháp lý hoặc đại diện cho người khác trước Tòa án. Mặt khác, ở Đức và Pháp, có những hạn chế đối với những người có thể đưa ra tư vấn pháp lý. Ở hầu hết các chủ quyền tài phán, quyền đại diện cho những người khác trước Tòa án bị hạn chế đối với các thành viên của các ngành nghề nhất định.

Trong tất cả các chủ quyền tài phán của EU, một số chức danh nhất định chỉ dành cho các thành viên của các tổ chức chuyên môn sử dụng. Việc hoàn thành thành công một thời gian học luật cụ thể tại trường đại học cùng với việc vượt qua một hoặc nhiều kỳ kiểm tra chuyên môn và một thời gian đào tạo dưới sự hướng dẫn của một thành viên có kinh nghiệm trong nghề thường được yêu cầu để có được quyền hành nghề dưới những chức danh đó. Ngay cả ở Phần Lan và Thụy Điển, cần phải có bằng cấp và tư cách thành viên của hiệp hội luật sư để sử dụng chức danh Advokat. Ở Tây Ban Nha, chỉ cần có bằng đại học để hành nghề luật sư bào chữa, mặc dù hầu hết sinh viên tốt nghiệp đôi khi dành thời gian làm việc trong văn phòng của luật sư bào chữa trước khi hành nghề theo đúng nghĩa của họ. Quyền tham dự phiên tòa đã từng bị hạn chế đối với các đối tượng thuộc các ngành nghề luật cụ thể và trong một số trường hợp đối với các thành viên của các đoàn luật sư địa phương (trong nước). Những hạn chế nội bộ như vậy đã được dỡ bỏ gần đây, ví dụ: Từ năm 1999, hạn chế luật sư hành nghề trong một quận duy nhất đã được dỡ bỏ tại Đức. Tương tự như vậy, cho đến tháng 7/2000, một luật sư bào chữa Tây Ban Nha phải đăng ký (và trả phí) cho hiệp hội luật sư địa phương ở mỗi khu vực tài phán địa phương trước khi trình diện trước Tòa án. Kể từ tháng 7/2000, chỉ cần đăng ký với một hiệp hội luật sư địa phương cũng có thể tham gia phiên tòa tại toàn bộ các địa phương. Quyền tham gia phiên tòa tại các Tòa án cấp dưới ở các khu vực tài phán của Anh đã được tự do hóa trong những năm gần đây mặc dù chỉ các thành viên của các tổ chức được công nhận mới có quyền này. Đối với các Tòa án cấp cao hơn, các quyền có liên quan bị hạn chế đối với luật sư bào chữa ở Scotland và các luật sư tranh tụng ở Anh và xứ Wales đối với các luật sư bào chữa - tư vấn, là những luật sư tư vấn đã đáp ứng bài kiểm tra về công việc bào chữa. Sự độc quyền của luật sư tư vấn đối với việc chuyển nhượng đã được nới lỏng nhưng vẫn chỉ giới hạn trong phạm vi những người là luật sư tư vấn hoặc người chuyển nhượng có giấy phép đủ điều kiện.

Hầu hết tất cả các tổ chức tự quản của các ngành nghề pháp lý ở EU đều có các quy tắc đạo đức và ứng xử, vi phạm có thể dẫn đến việc tước bỏ quyền hành nghề. Các trường hợp ngoại lệ là ở Phần Lan và Thụy Điển, nơi chỉ có chức danh là thuộc phạm vi điều chỉnh của những quy tắc như vậy vì không có giới hạn nào đối với quyền đưa ra tư vấn pháp lý hoặc đại diện cho người khác trước tòa. Ở hầu hết các chủ quyền tài phán sau khi có bằng luật, cần phải có một thời gian đào tạo chuyên nghiệp và kiểm tra thêm để được gia nhập tổ chức chuyên môn. Ở Đức, đây là kỳ thi do nhà nước quản lý trong khi ở các chủ quyền tài phán khác, kỳ thi này có thể do các tổ chức giáo dục hoặc tổ chức chuyên môn quản lý. Các yêu cầu về thời gian đào tạo dưới sự giám sát của một thành viên đang hành nghề có thể là cách hiệu quả nhất để các thành viên trong nghề quản lý việc gia nhập của các thành viên mới.

2.5. Quảng cáo và cạnh tranh về phí

Hạn chế truyền thống đối với quảng cáo của các đối tượng hành nghề luật đã được nới lỏng ở một số chủ quyền tài phán trong những năm gần đây. Trước đây, quảng cáo bị cấm ở Đức nhưng quy định hiện hành cho phép các quảng cáo cung cấp thông tin. Luật sư tư vấn ở Tây Ban Nha được phép quảng cáo. Trong nhiều ngành nghề pháp lý, quảng cáo phải tuân theo những hạn chế tối thiểu về tính chất của quảng cáo. Luật sư bào chữa ở Tây Ban Nha đã được phép quảng cáo từ năm 1999 nhưng việc này vẫn chưa được phổ biến rộng rãi. Các luật sư tư vấn ở Ireland và luật sư ở Đức được phép quảng cáo nhưng không được quảng cáo các mức phí.

Ở Tây Ban Nha, đoàn luật sư địa phương tính phí theo tỷ lệ dựa trên giá trị của giao dịch nhưng có vẻ như phương pháp xác định phí là vấn đề thương lượng giữa các bên theo Tòa án tối cao Tây Ban Nha. Nhà nước quy định các khoản phí tối thiểu mà luật sư ở Đức phải trả trên cơ sở giá trị của giao dịch. Lệ phí đầu cơ (tức mất phí nếu không tiến hành) bị cấm ở Đức và Bỉ cũng như đối với các luật sư tranh tụng ở Bắc Ireland.

2.6. Hạn chế về hình thức tổ chức

Thực hành đa ngành hiện được cho phép ở Pháp, Tây Ban Nha, Ý và Đức. Kết quả là các công ty kế toán quốc tế lớn đã có những bước tiến đáng kể trong thị trường pháp lý của Pháp và Tây Ban Nha. Tuy nhiên, ở Ý, những hoạt động này không thể mang tên công ty kế toán vì kế toán viên bị cấm hành nghề luật sư. Ở Anh, luật sư tư vấn, luật sư bào chữa và luật sư tranh tụng không được phép hành nghề với các chuyên gia khác. Nhiều hình thức hoạt động pháp lý khác nhau được dành cho luật sư bào chữa ở Tây Ban Nha và ở Pháp. Theo truyền thống ở Ý, luật sư bào chữa hoạt động theo hình thức chia sẻ chi phí của “công ty” hơn là chia sẻ lợi nhuận nhưng hình thức hợp tác hiện đã được thiết lập tốt.

Ở các quốc gia thành viên EU, việc đại diện tại Tòa án vẫn bị hạn chế trong hầu hết các trường hợp đối với các thành viên của một số cơ quan chuyên môn. Mặt khác, tư vấn pháp lý dường như là thị trường tự do hơn nhiều với các khoản phí chỉ tuân theo quy định ở Đức và ở một số chủ quyền tài phán khác, nơi luật sư chỉ có thể đưa ra khuyến nghị về các khoản phí phù hợp.

Những vấn đề đã đề cập ở trên cho thấy, các chủ quyền tài phán nơi thị trường dịch vụ pháp lý có tính cạnh tranh lý tưởng nhất có thể là Phần Lan và Thụy Điển, có thể tiếp theo là Scotland và Anh và xứ Wales. Ở một thái cực khác, Đức vẫn có các khoản phí được quy định và các công cụ cạnh tranh như quảng cáo chỉ mới được phép ở Tây Ban Nha gần đây.

EU có hơn 15 chế độ quản lý dành cho các nhà cung cấp dịch vụ pháp lý nhưng cam kết của khối đối với một thị trường châu Âu duy nhất giúp một chuyên gia đủ điều kiện hành nghề tại chủ quyền tài phán của mình có thể hành nghề tại bất kỳ một chủ quyền tài phán nào khác trong EU. Chỉ thị Hội đồng 77/249/EEC (Chỉ thị về dịch vụ) quy định về việc theo đuổi các hoạt động chuyên nghiệp trên cơ sở tạm thời và Chỉ thị Hội đồng 98/5/EC (Chỉ thị về thành lập) tạo điều kiện cho việc hành nghề lâu dài tại một chủ quyền tài phán trong EU.

3. Một số giá trị tham khảo cho Việt Nam

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 05/02/2007 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã nêu rõ một trong những chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước là đào tạo, bồi dưỡng để hình thành và phát triển được đội ngũ chuyên gia pháp luật và luật sư am hiểu luật pháp quốc tế, giỏi ngoại ngữ, có đủ khả năng tham gia tranh tụng quốc tế. Trong báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 05 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 05 năm 2021 - 2025, khi đánh giá về kết quả thực hiện các đột phá chiến lược đã khẳng định “hoạt động luật sư, công chứng, trợ giúp pháp lý, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp có bước phát triển mạnh, thị trường dịch vụ pháp lý bước đầu có đóng góp tích cực cho việc quản trị rủi ro pháp lý trong hoạt động đầu tư, kinh doanh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp”. Cũng trong Báo cáo này, một trong các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô là “tiếp tục phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp tăng cường quản trị rủi ro trong hoạt động đầu tư, kinh doanh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp”. Có thể thấy, phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý cũng là một trong những giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.

Một số khuyến nghị về phát triển thị trường dịch vụ pháp lý được rút từ kinh nghiệm của các quốc gia phân tích ở trên như sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của người tiêu dùng và minh bạch hóa các thông tin được cung cấp. Để đưa ra quyết định sáng suốt và so sánh các ưu đãi của nhà cung cấp dịch vụ pháp lý, người tiêu dùng cần thông tin rõ ràng để giúp họ hiểu giá cả và dịch vụ cung cấp của từng nhà cung cấp. Thông tin này cần phải có sẵn trước khi người tiêu dùng chọn nhà cung cấp. Điều quan trọng nữa là người tiêu dùng phải nhận thức được tình trạng pháp lý của nhà cung cấp, đặc biệt là liên quan đến các biện pháp bảo vệ dành cho người tiêu dùng.

Thứ hai, tập trung đào tạo, nâng cao kiến thức cho những người cung cấp dịch vụ pháp lý mà trực tiếp là đội ngũ luật sư, trọng tài viên, công chứng viên, thừa phát lại. Bài toán nhân lực là bài toán cốt lõi của mọi vấn đề. Một thị trường muốn phát triển thì phải đáp ứng được những tiêu chuẩn về nguồn nhân lực cả về chất cũng như lượng. Do đó, từ kinh nghiệm của một số quốc gia trên, cần tiếp tục nghiên cứu, đổi mới phương pháp giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ hành nghề luật.

Thứ ba, cần quan tâm đến thị trường dịch vụ pháp lý có yếu tố nước ngoài, có nghĩa là, đối với các hãng luật nước ngoài, luật sư nước ngoài hành nghề, tổ chức tư vấn tại Việt Nam và ngược lại. Việt Nam đã trở thành thành viên của Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và mới đây gia nhập các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nhu cầu tư vấn từ các luật sư hoạt động chuyên nghiệp trong lĩnh vực thương mại và đầu tư quốc tế sẽ ngày càng tăng. Các luật sư đã có kinh nghiệm tư vấn theo các cam kết WTO sẽ có lợi thế trong việc sử dụng các kinh nghiệm của mình vì các cam kết trong CPTPP cũng được thiết lập theo cách thức gần như tương tự. Tuy nhiên, thị trường dịch vụ pháp lý tại Việt Nam vẫn thiếu hụt rất nhiều luật sư trong lĩnh vực thương mại và đầu tư quốc tế. Do đó, bên cạnh việc nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế thì việc sử dụng luật sư nước ngoài tại Việt Nam cũng có thể xem là một phương án thay thế tạm thời, bảo đảm chất lượng công việc cũng như gián tiếp hỗ trợ đội ngũ luật sư Việt Nam.

Thứ tư, nắm bắt xu hướng sẽ giúp thị trường có những phát triển vượt bậc. Dưới tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các công việc đã được số hóa như giao kết hợp đồng trên nền tảng công nghệ số, kết nối luật sư và khách hàng thông qua video call hoặc nghiên cứu ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào lĩnh vực dịch vụ pháp lý. Xu hướng này sẽ mang lại rất nhiều tiện lợi, tiết kiệm thời gian, chi phí cho cả khách hàng và các luật sư nhưng cũng sẽ tạo nên nhiều tác động đa chiều. Chính vì vậy, cần có những nghiên cứu kịp thời và tận dụng xu hướng để thúc đẩy thị trường dịch vụ pháp lý tại Việt Nam trong thời gian tới.

ThS. Lê Xuân Tùng

Nguyễn Đức Tài

Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp

[1]. Viện Khoa học pháp lý, Báo cáo phúc trình Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam: Thực trạng, nhu cầu và định hướng phát triển”, tr. 11.

[2]. Trong cả PCPC và CPC, dịch vụ pháp lý đều được xếp vào nhóm dịch vụ kinh doanh; chỉ có một chút khác biệt là PCPC xếp dịch vụ pháp lý vào phân nhóm dịch vụ pháp lý, kế toán, kiểm toán và giữ sổ sách, thì CPC xếp dịch vụ pháp lý vào phân nhóm dịch vụ pháp lý và kế toán. Dịch vụ pháp lý được chia thành: Dịch vụ tư vấn và đại diện pháp lý liên quan đến luật hình sự (mã 8211); dịch vụ tư vấn và đại diện pháp lý liên quan đến các lĩnh vực luật khác (mã 8212); dịch vụ tài liệu và chứng nhận pháp lý (mã 8213) và các dịch vụ pháp lý khác trong đó có dịch vụ trọng tài và hòa giải (mã 82191).

[3]. https://www.thebusinessresearchcompany.com/report/legal-services-market#:~:text=The%20legal%20services% 20market%20consists,civil%20or%20criminal%20cases%2C%20business, truy cập ngày 23/12/2022.

[4].https://www.thebusinessresearchcompany.com/report/legal-services-market#:~:text=The%20legal%20services% 20market%20consists,civil%20or%20criminal%20cases%2C%20business, truy cập ngày 23/12/2022.

[5].https://www.thebusinessresearchcompany.com/report/legal-services-market#:~:text=The%20legal%20services% 20market%20consists,civil%20or%20criminal%20cases%2C%20business, truy cập ngày 23/12/2022.

[6]. Mario Pagliero và Edward Timmons, “Occupational Regulation in the European Legal Market”, Carlo Alberto Notebooks, No. 284 (December 2012).

[7]. Frank H. Stephen, “The European Single Market and the Regulation of the Legal Profession: An Economic Analysis”, Managerial and Decision Economics, Vol. 23, No. 3 (Apr. - May, 2002), pp. 115 - 125.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 377), tháng 3/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Hiện nay, các tội phạm sử dụng công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội diễn ra ngày càng phổ biến. Một trong những công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội, nguy hiểm, gây ra thiệt hại lớn cho xã hội được các tội phạm sử dụng nhiều nhất, chính là sử dụng mã độc tống tiền (Ransomware). Vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật để kịp thời phòng, chống những tác hại của Ransomware là thực sự cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Bài viết nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật của Hoa Kỳ và Trung Quốc, từ đó, kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Pháp luật về hòa giải thương mại của Việt Nam và Ấn Độ - Góc nhìn so sánh và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Việt Nam và Ấn Độ đều có khung pháp lý điều chỉnh hoạt động hòa giải thương mại, nhưng có sự khác biệt đáng kể về cơ chế vận hành và thực thi. Bài viết sử dụng phương pháp so sánh luật học để phân tích và đối chiếu quy định pháp luật giữa hai quốc gia, đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp luật về hòa giải thương mại tại Việt Nam.

Vai trò của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp và giá trị tham khảo cho Việt Nam

Nội các Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong quá trình lập pháp với quyền đề xuất hầu hết các dự thảo luật trình lên Quốc hội. Bài viết nghiên cứu, phân tích vị trí, vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp, từ sáng kiến đến soạn thảo, đánh giá và thông qua luật. Đồng thời, so sánh với quy trình lập pháp tại Việt Nam, chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt quan trọng. Từ đó, đề xuất các giá trị mà Việt Nam có thể tham khảo nhằm nâng cao vị trí và vai trò của Chính phủ trong quá trình xây dựng pháp luật.

Hình phạt tiền - Dưới góc nhìn so sánh pháp luật hình sự Việt Nam với Liên bang Úc và kinh nghiệm cho Việt Nam

Hình phạt tiền ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong hệ thống hình phạt của nhiều quốc gia, kể cả Việt Nam và Liên bang Úc, như một biện pháp hiệu quả để xử lý các hành vi phạm tội, đặc biệt là các tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm do pháp nhân thực hiện. Bài viết phân tích quy định pháp luật hình sự về hình phạt tiền của Việt Nam và Liên bang Úc, làm rõ sự khác biệt về đối tượng pháp nhân chịu trách nhiệm, phương pháp xác định mức phạt, các yếu tố Tòa án cân nhắc và cơ chế thi hành; từ đó, rút ra một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo đối với Việt Nam.

Kết đôi dân sự theo pháp luật của Pháp và gợi mở quy chế pháp lý cho cặp đôi không muốn kết hôn tại Việt Nam

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã ghi nhận và thiết lập quy định liên quan đến vấn đề chung sống như vợ chồng, bởi đây là hiện tượng khách quan và phổ biến trong xã hội. Bộ luật Dân sự Pháp đã thiết kế chế định kết đôi dân sự để điều chỉnh mối quan hệ giữa các cặp đôi chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn. Bài viết phân tích chế định kết đôi dân sự ở Pháp, thực trạng chung sống như vợ chồng ở Việt Nam và gợi mở về một số thay đổi của chính sách, pháp luật hôn nhân và gia đình tại Việt Nam.
Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh là một cơ chế pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của cổ đông và công ty. Hình thức kiện này đã hình thành từ rất lâu tại Anh và được xây dựng dựa trên nền tảng thông luật. Ở Việt Nam, kiện phái sinh mới chỉ được ghi nhận thông qua các quy định pháp luật trong thời gian gần đây. Bài viết phân tích các quy định pháp lý về hình thức kiện phái sinh tại Vương quốc Anh, đánh giá những ưu điểm, hạn chế của cơ chế này, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện cơ chế kiện phái sinh, phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam.

Xây dựng mô hình Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ tại Việt Nam - Kinh nghiệm từ Nhật Bản và Vương quốc Anh

Bài viết so sánh mô hình Tòa Thượng thẩm sở hữu trí tuệ chuyên sâu Nhật Bản và hệ thống Tòa án sở hữu trí tuệ xét xử linh hoạt ở Anh, từ đó, rút ra khuyến nghị cho Việt Nam, đề xuất thành lập Tòa án chuyên biệt về sở hữu trí tuệ tại các trung tâm kinh tế lớn, kết hợp mô hình xét xử phù hợp để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả.

Thuế carbon và cơ chế điều chỉnh biên giới carbon - Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý khung pháp lý cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada trong thiết kế và thực thi chính sách định giá carbon, đồng thời, chỉ ra những khoảng trống của pháp luật Việt Nam, đặc biệt, về Hệ thống đo lường, giám sát phát thải và Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon. Trên cơ sở đó, đề xuất lộ trình xây dựng luật thuế carbon, tích hợp Hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định, Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon nội địa và quy trình quản lý thuế minh bạch, giúp Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, bảo vệ doanh nghiệp và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ - Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu về trí tuệ nhân tạo (AI), sự cần thiết ứng dụng AI trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) nhìn từ kinh nghiệm của một số quốc gia, khu vực dẫn đầu trong việc ứng dụng AI vào bảo hộ quyền SHTT như Hoa Kỳ, châu Âu, Trung Quốc… từ đó, nghiên cứu đưa ra một số gợi mở cho việc ứng dụng AI trong việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến việc ứng dụng AI vào hoạt động bảo hộ quyền SHTT.

Chuẩn hợp đồng (Quasi contract) - Cơ sở pháp lý và đề xuất áp dụng tại Việt Nam

Bài viết phân tích khái niệm chuẩn hợp đồng (Quasi contract) trong hệ thống pháp luật Common Law và sự tương đồng với một số quy định trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, đồng thời đề xuất việc nghiên cứu lựa chọn có chọn lọc và áp dụng Quasi contract vào hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp và bảo vệ quyền lợi các bên.

Bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo - Nhìn từ thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết phân tích chính sách bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư liên quan đến trí tuệ nhân tạo (AI) ở một số quốc gia trên thế giới, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam về vấn đề này.

Cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba tại Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho Việt Nam

Bài viết phân tích cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba (cơ chế Safe Harbor) trong luật pháp Hoa Kỳ và Việt Nam, từ đó, đưa ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật liên quan đến các trường hợp miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet.

Xây dựng luật thuế các-bon - Kinh nghiệm Singapore và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Thuế các-bon là một công cụ tài chính quan trọng nhằm giảm phát thải khí nhà kính bằng cách định giá lượng khí CO₂ thải ra môi trường. Việc áp dụng thuế này không chỉ giúp kiểm soát ô nhiễm mà còn tạo nguồn thu để đầu tư vào các giải pháp phát triển bền vững. Trong bối cảnh đã có nhiều quốc gia xây dựng, ban hành và áp dụng thuế các-bon, Việt Nam cần cân nhắc xây dựng khung pháp lý phù hợp cho việc áp dụng thuế các-bon trong nước. Singapore là một trong những quốc gia đi đầu ở Đông Nam Á trong xây dựng, áp dụng pháp luật về thuế các-bon với nhiều điểm nổi bật mà Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc, phù hợp với thực tế của Việt nam. Xuất phát từ đó, bài viết làm rõ một số kinh nghiệm nổi bật của Singapore về xây dựng Luật thuế các-bon, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích quy định về xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 ngày 23/10/2024 của Nghị viện và Hội đồng châu Âu về việc cải thiện điều kiện làm việc đối với công việc nền tảng (Chỉ thị (EU) 2024/2831) và thực trạng xác định tình trạng lao động tại Việt Nam hiện nay, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Miễn trừ thông báo tập trung kinh tế - Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tập trung kinh tế là quá trình giảm số lượng doanh nghiệp độc lập trên thị trường thông qua sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh nhằm mở rộng quy mô và nâng cao khả năng cạnh tranh. Hành vi này giúp tối ưu nguồn lực nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ hạn chế cạnh tranh, dẫn đến độc quyền, ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường và người tiêu dùng. Pháp luật cạnh tranh của Mỹ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản kiểm soát tập trung kinh tế qua quy định về thông báo giao dịch và các trường hợp miễn trừ thông báo đối với hành vi tập trung kinh tế ít tác động đến thị trường. Từ kinh nghiệm của những quốc gia này về các trường hợp được miễn thông báo tập trung kinh tế, nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Theo dõi chúng tôi trên:

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son