1. Đặt vấn đề
Công tác thi hành án dân sự (THADS) là công việc khá phức tạp, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các chủ thể xã hội. Đây là hoạt động có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần đưa những phán quyết có hiệu lực pháp luật của Tòa án, từ đó, quyền và lợi ích của Nhà nước, của các chủ thể trong xã hội được bảo vệ; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, củng cố niềm tin chắc chắn của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, chức năng điều hành quản lý của Nhà nước và vai trò quan trọng của pháp luật trong việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Trong những năm qua hoạt động THADS đã có những bước tiến đáng khích lệ, nhất là sau khi Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật Thi hành án dân sự). Tuy nhiên, trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, không thể tránh khỏi sự phức tạp trong các mối quan hệ xã hội dẫn đến những tranh chấp ngày càng phức tạp hơn việc giải quyết và tổ chức THADS cũng gặp phải những khó khăn và vướng mắt nhất định. Vì vậy, cần quan tâm đến hoạt động THADS nhiều hơn để tìm ra hệ thống những giải pháp đồng bộ và cụ thể để đưa những pháp quyết của Tòa án và thực tế bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; góp phần củng cố vai trò của pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2. Thực trạng công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Tiền Giang
Trong thời gian qua, hoạt động THADS trên địa bàn tỉnh Tiền Giang đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, cơ quan THADS trên địa bàn tỉnh Tiền Giang đã thực hiện nghiêm túc, đúng quy định pháp luật về trách nhiệm báo cáo công tác thi hành án dân sự.
Đội ngũ cán bộ thực hiện hoạt động THADS được tăng cường cả về số lượng lẫn chất lượng. Đội ngũ này được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ hằng năm nhằm cập nhật những quy định mới, những phát sinh mới để áp dụng vào thực tiễn cho phù hợp với quy định pháp luật trong tình hình mới. Hàng năm, Tổng cục thi hành án dân sự, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tiền Giang mở 02 đợt tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ cho tất cả cán bộ làm công tác nghiệp vụ. Nội dung tập huấn ngày càng được nâng cao, bên cạnh cung cấp những văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành trong lĩnh vực THADS còn giải đáp, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắt trong quá trình giải quyết án.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho nhu cầu công tác của cơ quan ngày càng được hoàn thiện, mỗi cá nhân được trang bị một máy vi tính, phòng làm việc được trang bị đầy đủ trang thiết bị văn phòng hiện đại như máy in, máy fax, máy photo. Bên cạnh đó, tất cả các cơ quan thi hành án đóng trên địa bàn tỉnh Tiền Giang đều được trang bị xe ôtô và mô tô phục vụ cho nhu cầu di chuyển công tác hằng ngày xuống các cơ sở, địa bàn cần triển khai thi hành án.
Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự từng bước được chú trọng và đạt được hiệu quả cao. Cơ quan thi hành án đóng trên các địa bàn tại tỉnh Tiền Giang đã chủ động liên kết với Đài phát thanh tuyên truyền về các quy định pháp luật về thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng và thông tin về những vụ việc thi hành án mà người phải thi hành án chống đối, không hợp tác với cơ quan thi hành án. Từ đó, cơ quan thi hành án đã phổ biến những quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ cũng như chế tài mà người phải thi hành án phải chịu khi chống đối, không hợp tác với cơ quan thi hành án triển khai các quyết định thi hành án, quyết định, bản án của đã tuyên có hiệu lực pháp luật của Toà án. Qua công tác tuyên truyền, ý thức chấp hành pháp luật của người dân ngày càng được nâng lên đã giúp chấp hành viên trong công tác vận động đương sự tự nguyện thi hành án, hạn chế cưỡng chế THADS, giảm bớt nhân lực của cơ quan liên quan.
Công tác phối hợp với các cơ quan liên ngành có trách nhiệm trong việc tổ chức THADS cũng được chú trọng. Nhờ sự phối hợp chặt chẽ với Ủy ban nhân dân cấp xã trên địa bàn cần tiến hành THADS, công tác xác minh điều kiện thi hành án của đương sự được thực hiện nhanh chóng. Bên cạnh đó, Ủy ban nhân dân cấp xã còn hỗ trợ đội ngũ chấp hành viên trong việc động viên, thuyết phục người phải thi hành án tự nguyện thi hành án, giảm tải nhiều vụ cưỡng chế thi hành. Kết quả thi hành án dân sự có nhiều chuyển biến tích cực; tỷ lệ giải quyết THADS tăng về số việc và số tiền; nhiều vụ việc còn tồn đọng kéo dài cũng được giải quyết dứt điểm, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc THADS nhất là nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của quyết định, bản án của Tòa án, nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
Trình tự, thủ tục THADS ngày càng được đơn giản hóa theo Luật Thi hành án dân sự, công tác kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo dần đi vào nề nếp, góp phần hỗ trợ tích cực cho việc hoàn thành các chỉ tiêu THADS được giao.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, công tác THADS trên địa bàn tỉnh Tiền Giang còn tồn tại những hạn chế, khó khăn, cụ thể:
Mặc dù, chấp hành viên đã nỗ lực nhưng tỷ lệ giải quyết án, nhất là án tồn đọng còn chưa hiệu quả. Án tồn đọng là những vụ việc có điều kiện thi hành án nhưng chưa được thi hành trong năm và được chuyển từ năm này sang năm khác, có hai loại: Tồn đọng theo việc và tồn đọng theo tiền, tài sản. Trong những năm qua tỷ lệ giải quyết án tồn đọng vẫn còn chậm, đạt hiệu quả giải quyết chưa cao.
Nguyên nhân án tồn đọng còn kéo dài do một số bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng chưa bảo đảm tính khả thi để thi hành trên thực tế, đã ảnh hưởng không nhỏ đến tỷ lệ giải quyết án trên địa bàn. Đơn cử như những vụ việc Tòa án tuyên người phải chấp hành án nộp phạt nhưng trên thực tế người chấp hành án không có tài sản riêng chỉ có tài sản chung với hộ gia đình, tuy nhiên khi việc xác minh khối tài sản chung cũng như các thành viên của hộ gia đình để khởi kiện phân chia tài sản chung gây tốn kém rất nhiều chi phí và thời gian cho đội ngũ thi hành án và người yêu cầu thi hành án. Đến nay, đại đa số những vụ việc này còn chờ Tòa án xét xử để phân chia tài sản chung. Bên cạnh đó, một số quy định của pháp luật khi triển khai trên thực tế gây ra nhiều vướng mắc, có thể kể đến là những quy định liên quan đến cấp dưỡng dựa trên đơn vị tính là số ký gạo mỗi tháng. Tuy nhiên, thời gian thay đổi, tình hình kinh tế cũng biến đổi theo, so với thời điểm bản án tuyên và thời điểm có điều kiện chấp hành án thì số tiền trên một ký gạo đã thay đổi. Do đó, ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế của người yêu cầu thi hành án. Những quy định này khi triển khai trên thực tế cũng gây ra những khó khăn, lúng túng cho chấp hành viên vì bởi lẽ nếu theo đúng quy định pháp luật thì sẻ ảnh hưởng đến người có quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu thi hành án.
Trong công tác phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã để xác minh điều kiện THADS cũng gặp không ít những khó khăn, đôi khi chưa được khách quan và sát với tình hình thực tế. Một số trường hợp được phân loại vào án không có điều kiện chấp hành án nhưng sau đó người yêu cầu thi hành án nộp đơn yêu cầu thi hành án vì có căn cứ cho rằng người phải chấp hành án có điều kiện kinh tế và tài sản: Có hành vi xây nhà, chuyển nhượng quyền sử dụng đất… Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của cơ quan THADS, thời gian và công sức của người có quyền và lợi ích hợp pháp. Sự liên hệ và phản hồi trong công tác phối hợp đối với cưỡng chế THADS còn chậm, có vụ việc thời gian chờ phản hồi từ Ủy ban nhân dân và cơ quan Công an lên đến 60 ngày, điều này làm chậm quá trình THADS gây nên những bức xúc từ người dân. Trong công tác phối hợp, giữa các các cơ quan ban, ngành tồn tại những ý kiến khác nhau trong cùng một vấn đề, nhưng việc chưa thể thống nhất được ý kiến nên án vẫn tồn đọng chưa thể thi hành được, có thể kể đến: Những vụ việc liên quan đến người phải chấp hành án chỉ có tài sản duy nhất là nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất, để chấp hành án, chấp hành viên tiến hành kê biên tài sản, thẩm định giá và bán đấu giá. Viện kiểm sát nhân dân và Công an thống nhất ý kiến trên vì căn cứ theo quy định khoản 1 Điều 95 và khoản 5 Điều 115 Luật Thi hành án dân sự. Tuy nhiên, ý kiến từ trưởng ban chỉ đạo thi hành án (chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện) không thống nhất ý kiến trên vì cho rằng đây là tài sản duy nhất của người phải chấp hành án, khi kê biên bán đấu giá và cưỡng chế thi hành án thì người phải chấp hành án sẽ rơi vào hoàn cảnh không nơi cư trú. Vì vậy, vụ việc trên vẫn chưa được thi hành án xong.
Một số vụ việc liên quan đến người phải chấp hành án là cơ quan nhà nước nhưng trong trường hợp cơ quan nhà nước không tự nguyện thi hành và chưa có cơ chế buộc phải thi hành án dẫn đến các bản án, quyết định của Tòa án chưa thể triển khai trên thực tế. Một số quy định pháp luật về hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự nhưng chưa sửa đổi, bổ sung kịp thời. Vẫn còn tình trạng một số quy định pháp luật còn mâu thuẫn gây khó khăn cho công tác THADS. Cụ thể tại khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự: “Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 của Luật này hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự. Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu Tòa án giải quyết thì chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự. Chấp hành viên xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án”. Theo quy định này, chấp hành viên không được phân chia khối tài sản chung mà chỉ yêu cầu Tòa án xác định quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự. Chấp hành viên xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự (Nghị định số 62/2015/NĐ-CP) quy định: “Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu, sử dụng theo số lượng thành viên của hộ gia đình tại thời điểm xác lập quyền sở hữu tài sản, thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất. Chấp hành viên thông báo kết quả xác định phần sở hữu, sử dụng cho các thành viên trong hộ gia đình biết”. Như vậy, theo quy định này chấp hành viên có quyền xác định phần sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản chung của vợ chồng; xác định phần sở hữu, sử dụng theo số lượng thành viên của hộ gia đình tại thời điểm xác lập quyền sở hữu tài sản thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất. Có thể thấy sự không thống nhất giữa quy định của Luật Thi hành án dân sự và Nghị định số 62/2015/NĐ-CP gây không ít khó khăn, lúng túng cho đội ngũ chấp hành viên.
Bên cạnh đó, công tác THADS tại tỉnh Tiền Giang dù đạt được những kết quả khích lệ nhưng sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp vẫn chưa cao. Trong kết quả nghiên cứu Báo cáo về PCI công bố vừa qua, công tác THADS của cả nước được đánh giá tại mục Thiết chế pháp lý (là mục đánh giá về chất lượng giải quyết các vụ việc thông qua Tòa án và tình tình an ninh trật tự tại các địa phương), theo đó “79,1% doanh nghiệp cho biết: Phán quyết của Tòa án được thi hành nhanh chóng trong khảo sát năm 2020, tăng so với 62,8% của năm 2016”. Nhưng riêng ở tỉnh Tiền Giang thì kết quả qua các năm từ 2006 đến 2020 vẫn đạt ở mức trung bình[1].
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Tiền Giang
Từ những phân tích thực trạng nêu trên, nhằm khắc phục những hạn chế, khó khăn THADS trên địa bàn tỉnh Tiền Giang cần thực hiện các giải pháp sau đây:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và lãnh đạo cơ quan thi hành án trong công tác thi hành án dân sự.
Từ thực tiễn cho thấy, sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo, sâu sát, sự kiểm tra thường xuyên của lãnh đạo các cấp ủy Đảng, lãnh đạo cơ quan thi hành án là yếu tố quan trọng hàng đầu để nâng cao hoạt động tư pháp hiệu quả. Sự lãnh đạo, chỉ đạo không chỉ ở việc ban hành các nghị quyết, các văn bản hướng dẫn mà còn thông qua công tác kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện để nắm bắt tình hình, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc giúp nâng cao hoạt động THADS tại địa phương. Đồng thời, cơ quan THADS trên địa bàn tỉnh cần tham mưu các cấp lãnh đạo để giải quyết khó khăn về chính sách, quy định điều chỉnh; tăng cường đầu tư cơ sở, vật chất.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Các cơ quan có trách nhiệm trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến THADS cần rà soát, bổ sung, sửa đổi kịp thời những quy định về THADS không còn phù hợp. Bên cạnh đó, cần kịp thời ban hành những văn bản hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự; đồng thời rà soát và khắc phục tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa văn bản Luật và văn bản hướng dẫn, cụ thể, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP còn tồn tại nhiều bất cập gây khó khăn cho chấp hành viên trong quá trình THADS nhưng sau gần 05 năm, Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự mới được ban hành và triển khai.
Thứ ba, kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về thi hành án dân sự.
Trước hết, lãnh đạo cơ quan THADS cần tăng cường tự kiểm tra, giám sát hoạt động thi hành án tại cơ quan, tăng cường rà soát, xác minh phân loại án vì đây là công việc có ý nghĩa to lớn thúc đẩy hoặc làm chậm việc THADS. Chính vì vậy, cơ quan thi hành án cần thường xuyên làm tốt công tác rà soát, phân loại án để có biện pháp thi hành đạt hiệu quả. Khi tiến hành công tác rà soát, phân loại hồ sơ thi hành án cần lưu ý: Phải rà soát, sàng lọc án bằng hình thức phân loại theo mức độ và tính chất phức tạp để tính toán các biện pháp, tập trung sự chỉ đạo, tổ chức thi hành án cho từng loại án, từ kết quả sàng lọc để có phương án tối ưu và kịp thời thi hành án dứt điểm vụ việc; việc sắp xếp, phân loại án khoa học sẽ không để lọt, không quên, không bỏ sót việc và sắp xếp không được chồng chéo để luôn đáp ứng khi có yêu cầu phát sinh. Lãnh đạo cơ quan thi hành án cần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành án dân sự bằng hệ thống các giải pháp bao gồm: Ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể về công tác hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ để các đơn vị trực thuộc có căn cứ, cơ sở chủ động thực hiện một cách hiệu quả; tranh thủ ý kiến chỉ đạo nghiệp vụ của cấp trên cũng như ý kiến chỉ đạo của Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự đối với từng vụ việc cụ thể; đưa nội dung nâng cao hiệu quả công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ trở thành nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch công tác với mục tiêu, lộ trình, phương án thực hiện cụ thể…
Đối với chấp hành viên, chấp hành viên cần thể hiện trách nhiệm đối với việc thực hiện xác minh, phân loại án có điều kiện thi hành và chưa có điều kiện thi hành án trên cơ sở những căn cứ khách quan, thực tế. Thường xuyên rèn luyện kỹ năng vận động, thuyết phục người phải thi hành án tự nguyện thi hành án, tạo điều kiện cho các bên có cơ hội thỏa thuận thi hành án và phương thức thi hành án. Cần nêu cao tinh thần giáo dục pháp luật, vận động thuyết phục nhưng vẫn cương quyết thi hành án khi có những biểu hiện cố tình không thi hành án hoặc chống đối việc thi hành án. Chấp hành viên cần xây dựng kế hoạch giải quyết án cụ thể, đề ra chỉ tiêu giải quyết hàng tháng để trên cơ sở đó thực hiện; dành thời gian nghiên cứu văn bản pháp luật hiện hành để củng cố, cập nhật kiến thức chuyên môn và nghiệp vụ. Đồng thời, chấp hành viên cần nêu cao tinh thần tự học, tự nghiên cứu.
Thứ tư, tăng cường, củng cố mối quan hệ giữa các chủ thể có trách nhiệm trong thi hành án dân sự.
Đối với chấp hành viên cần tham mưu ý kiến với lãnh đạo cơ quan, có biện pháp thuyết phục hiệu quả để thống nhất ý kiến với các cơ quan, ban, ngành nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắt trong công tác phối hợp, giải quyết sao cho có lý, có tình nhưng vẫn phải bảo đảm đúng quy định của pháp luật.
Đối với lãnh đạo cơ quan thi hành án cần tổ chức các biện pháp phối hợp, huy động mọi lực lượng cùng tham gia thi hành án; lấy phương châm giáo dục thuyết phục là chính nhưng cũng sẵn sàng áp dụng biện pháp cưỡng chế khi cần thiết; thực hiện tốt công tác tự kiểm tra tại cơ quan; thường xuyên theo dõi tiến độ kết quả giải quyết của chấp hành viên để có giải pháp chỉ đạo kịp thời. Lãnh đạo cơ quan cần thường xuyên phối hợp với các cơ quan liên ngành, chính quyền địa phương trong công tác thi hành án bằng cách chủ động đề xuất ký kết các Quy chế phối hợp với các cơ quan, ban, ngành khác; cần làm tốt hơn nữa công tác phối hợp để giải quyết vụ việc THADS còn tồn đọng, đặc biệt cần phát huy tốt vai trò, chức năng của Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự, làm tốt công tác này sẽ tạo nên rất nhiều điều kiện thuận lợi cho cơ quan THADS giải quyết tốt những vụ án phức tạp, kéo dài tại địa phương.
Thứ năm, nâng cao chất lượng công tác thi đua - khen thưởng về công tác giảm án tồn đọng.
Công tác thi đua - khen thưởng giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy, tạo động lực cho các cá nhân, tập thể cơ quan THADS nỗ lực, quyết tâm hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ được giao. Chính vì vậy, đây được xem là công cụ hữu hiệu để thúc đẩy công tác THADS. Để làm được điều đó, các cơ quan THADS trên địa bàn tỉnh Tiền Giang cần quan tâm nâng cao công tác thi đua - khen thưởng nói chung và công tác thi đua - khen thưởng về giảm án tồn đọng nói riêng. Để nâng cao chất lượng thi đua - khen thưởng về công tác giảm án tồn đọng, các cấp lãnh đạo cần bảo đảm công tác thi đua - khen thưởng mang tính thực chất, biểu dương, ghi nhận những tập thể, cá nhân đã có nhiều nỗ lực, cố gắng, đạt được nhiều thành tích quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ, đồng thời cần nghiêm túc xử lý những đơn vị, cá nhân chưa làm tốt, nêu cao tinh thần trách nhiệm dẫn đến án tồn đọng, kéo dài. Kế đến, cơ quan THADS đẩy mạnh phong trào thi đua giảm án tồn đọng theo từng giai đoạn cụ thể, mỗi năm có thể tổ chức từ một đến hai đợt để góp phần tạo nên những hiệu ứng tốt về tư tưởng, tinh thần, đẩy nhanh kết quả giải quyết án tồn đọng.
Trường Chính trị Tiền Giang