Thứ hai 17/11/2025 23:25
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về hình phạt tiền

Trong phạm vi bài viết, tác giả phân tích một số điểm còn hạn chế, bất cập trong quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về hình phạt tiền, từ đó, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện quy định về vấn đề này.

Hiện nay, xu hướng chung của hệ thống hình phạt của các nước trên thế giới đó là mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền. Cũng nằm trong xu thế đó, ở Việt Nam, hình phạt tiền được quy định trong Bộ luật Hình sự cũng mở rộng phạm vi áp dụng và được quy định tại Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015). Hình phạt tiền là hình phạt có tính chất kinh tế nhằm vào tài sản của người phạm tội, được thực hiện bằng việc buộc người phạm tội phải nộp một khoản tiền nhất định sung vào công quỹ nhà nước[1].

Hình phạt tiền là hình phạt giữ vai trò quan trọng trong hệ thống các hình phạt chính, nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội. Việc áp dụng hình phạt tiền trong nhiều trường hợp sẽ giúp cho việc cá thể hóa hình phạt ở mức cao mà khi áp dụng các loại hình phạt khác khó có thể đạt được mục đích của hình phạt. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có một số thay đổi so với Bộ luật Hình sự năm 1999 và một trong những điểm nổi bật đó là việc mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền. Việc mở rộng phạm vi nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp “giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm”[2]. Đồng thời, đáp ứng thực tiễn trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi mà mục đích của người phạm tội hướng tới lợi nhuận, cũng như phù hợp với hình phạt áp dụng đối với người phạm tội của các quốc gia trên thế giới.

Tuy nhiên, quá trình áp dụng quy định về hình phạt tiền vẫn còn một số hạn chế, bất cập, do đó, yêu cầu đặt ra là cần phải hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về hình phạt tiền nhằm bảo đảm quá trình áp dụng vào thực tiễn được thống nhất và hiệu quả cao. Cụ thể:

Thứ nhất, việc áp dụng hình phạt tiền đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Trong thực tiễn xét xử, việc áp dụng hình phạt tiền đối với người dưới 18 tuổi phạm tội căn cứ theo quy định tại Điều 99 Bộ luật Hình sự năm 2015, theo đó, phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng; mức tiền phạt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, việc chỉ áp dụng hình phạt tiền đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là chưa toàn diện. Bởi vì, tại khoản 1 Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015, quy định hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp như người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng; người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định. Như vậy, so với Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội nghiêm trọng và thậm chí cả đối với người phạm tội rất nghiêm trọng. Đối với trường hợp người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng thì việc quy định và áp dụng hình phạt tiền không bị giới hạn về nhóm tội phạm. Đối với trường hợp người phạm tội rất nghiêm trọng thì bị giới hạn về nhóm tội phạm, cụ thể là, người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định. Tuy nhiên, tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi loại tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại 28 điều luật nêu tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015. Trong 28 tội danh mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì có các tội xâm phạm trật tự công cộng, an toàn công cộng. Đối chiếu với các quy định tại khoản 1 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2019 thì người lao động là người làm việc cho người sử dụng lao động theo thỏa thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động. Đồng thời, Bộ luật Lao động năm 2019 cũng quy định đối với lao động chưa thành niên tại mục 1 Chương XI, theo đó, người từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi chỉ được làm công việc nhẹ theo danh mục do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành; người chưa đủ 13 tuổi chỉ được làm các công việc theo quy định tại khoản 3 Điều 145 Bộ luật Lao động năm 2019. Do đó, không chỉ người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, có thu nhập riêng mà người dưới 15 tuổi cũng có thể tham gia làm việc để có thu nhập và tài sản riêng.

Từ các căn cứ nêu trên, tác giả cho rằng, để bảo đảm thực hiện tốt nhất mục đích áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nên mở rộng đối tượng áp dụng hình phạt tiền đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi nếu xét thấy họ có thu nhập hoặc có tài sản riêng thay vì áp dụng nhiều hình phạt tù có thời hạn hoặc cải tạo không giam giữ. Việc quy định này sẽ bảo đảm mục đích áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.

Thứ hai, về mức phạt tiền áp dụng.

Khoản 3 Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định mức thấp nhất của hình phạt tiền là 01 triệu đồng, mức tối đa tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự năm 2015. Như vậy, Bộ luật Hình sự năm 2015 vẫn giữ nguyên quy định về mức khởi điểm của hình phạt tiền như Điều 30 Bộ luật Hình sự năm 1999 là 01 triệu đồng. Theo tác giả, quy định này chưa thực sự phù hợp với các quy định cụ thể trong Bộ luật Hình sự năm 2015, bởi vì, trong phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự năm 2015 không có bất cứ điều luật cụ thể nào có quy định hình phạt tiền với mức khởi điểm là 01 triệu đồng mà mức khởi điểm thấp nhất (đối với cả hình phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung) là 05 triệu đồng. Do vậy, để bảo đảm tính thống nhất, tác giả kiến nghị nâng mức thấp nhất của hình phạt tiền lên 05 triệu đồng.

Mặt khác, theo quy định tại Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì hình phạt tiền có thể là hình phạt chính nhưng cũng có thể chỉ là hình phạt bổ sung (đối với người phạm tội trong một số tội phạm cụ thể mà Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định). Bộ luật Hình sự năm 2015 chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa hình phạt tiền với tính chất là hình phạt chính với phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung, mức phạt tiền tối thiểu giữa hình phạt chính và hình phạt bổ sung không được quy định riêng, đều quy định chung là 01 triệu đồng. Ví dụ: Đối với Tội đánh bạc (Điều 321) thì mức thấp nhất của khung hình phạt khi áp dụng hình phạt chính là phạt tiền là 20 triệu đồng, trong khi đó, hình phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung đã có mức khởi điểm là 10 triệu đồng và tối đa là 50 triệu đồng, tức là hình phạt tiền với tư cách là hình phạt bổ sung có mức phạt tối đa cao hơn cả hình phạt tiền với tư cách là hình phạt chính. Về nguyên tắc, hình phạt chính phải có mức độ nghiêm khắc hơn hình phạt bổ sung nên khi quy định về hình phạt tiền với tư cách là hình phạt chính phải có sự phân định rõ ràng với hình phạt tiền với tư cách là hình phạt bổ sung. Có như vậy mới thực hiện triệt để nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong khi áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội. Do vậy, theo quan điểm của tác giả, cần phải sửa đổi các quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự năm 2015 theo hướng quy định mức tối thiểu của phạt tiền với tính chất là hình phạt chính phải cao hơn mức tối đa của phạt tiền với tính chất hình phạt bổ sung.

Thứ ba, về khoảng cách giữa mức phạt tiền tối thiểu và tối đa trong một khung hình phạt tại một số điều luật trong phần các tội phạm.

Trong Bộ luật Hình sự năm 2015, một số điều luật tại Phần thứ hai “Các tội phạm” có quy định khoảng cách giữa mức phạt tiền tối thiểu và tối đa trong cùng khung hình phạt còn chênh lệch quá lớn. Ví dụ: Tại khoản 3 Điều 200 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội trốn thuế có mức phạt tiền khi áp dụng là hình phạt chính tối thiểu là 01 tỷ 500 triệu đồng, trong khi mức tối đa là 04 tỷ 500 triệu đồng (chênh lệch 03 tỷ đồng); tại khoản 3 Điều 235 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội gây ô nhiễm môi trường có mức phạt tiền khi áp dụng là hình phạt chính tối thiểu là 01 tỷ đồng, trong khi quy định mức tối đa là 03 tỷ đồng (chênh lệch 02 tỷ đồng). Việc quy định như trên chưa thực sự bảo đảm nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự, đồng thời, có thể là cơ sở cho sự tùy tiện trong việc áp dụng hình phạt này. Do đó, theo quan điểm của tác giả, cần thu hẹp khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối đa trong việc quy định hình phạt tiền hoặc phân hóa hình phạt tiền trong các khung hình phạt khác nhau như đối với hình phạt tù có thời hạn, tạo điều kiện cho việc quyết định một hình phạt nghiêm khắc và công bằng.

Thứ tư, về căn cứ quyết định mức phạt tiền.

Khoản 3 Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động của giá cả. Tuy nhiên, việc chứng minh khả năng tài chính của người phạm tội chỉ mang tính chất tương đối và thường gặp nhiều khó khăn trong việc xác minh thu nhập cũng như tài sản riêng của họ, điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: Người phạm tội có tâm lý che giấu thu nhập, tài sản của mình gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng; quy định của pháp luật còn một số vướng mắc, thiếu sự thống nhất trong quản lý nguồn tài sản, các biến động về tài sản của công dân. Trên thực tế, trong quá trình giải quyết vụ án, việc xác minh về khả năng tài chính của người phạm tội chủ yếu dựa trên các nguồn như: Lời khai của người phạm tội, các giấy tờ chứng minh được tài sản hợp pháp của người phạm tội, lời khai của những người thân thích trong gia đình người phạm tội... Đặc biệt là, đối với người phạm tội không có nghề nghiệp ổn định, lao động tự do thì càng khó xác định được chính xác tình hình tài sản của họ. Do vậy, việc xác định tình hình tài sản của người phạm tội mang tính chất tương đối. Bên cạnh đó, biến động giá cả cũng là một trong các căn cứ để quyết định mức phạt tiền, tuy nhiên, căn cứ này cũng thường không được thể hiện trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Tòa án khó có thể đưa ra một mức phạt tiền phù hợp với tình hình tài sản của người phạm tội và sự biến động giá cả. Nếu như mức phạt tiền cao so với tình hình tài sản của người phạm tội sẽ dẫn đến việc khó thi hành trên thực tế, ngược lại, trường hợp mức phạt tiền thấp thì không bảo đảm được tính nghiêm minh, răn đe của hình phạt.

Do đó, để phù hợp với tình hình quản lý tài sản ở nước ta hiện nay, cũng như để bảo đảm công tác thi hành án đối với những người bị áp dụng hình phạt chính là phạt tiền, tác giả đề xuất, cần yêu cầu người phạm tội cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan đến tình hình tài sản, thu nhập của bản thân..., nếu họ không có thu nhập, không có tài sản thì không nên áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền, vì như vậy sẽ dẫn đến công tác thi hành án hình sự gặp nhiều khó khăn. Trong những trường hợp này, có thể lựa chọn các loại hình phạt chính khác phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội như cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn...

Thứ năm, về việc khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam khi áp dụng hình phạt chính là phạt tiền.

Trong Bộ luật Hình sự năm 2015, các hình phạt chính như tù có thời hạn, cải tạo không giam giữ đều quy định việc khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam vào thời hạn chấp hành án, trong khi đó, hình phạt tiền lại không quy định về việc khấu trừ này. Về vấn đề này, tác giả cho rằng, cần quy định về việc khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam đối với cả hình phạt tiền. Bởi lẽ, trên thực tế, có một số trường hợp người phạm tội bị tạm giữ, tạm giam nhưng khi xét xử, nếu Tòa án áp dụng hình phạt tiền đối với họ sẽ không thể khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam bởi vì không có quy định về vấn đề này. Do vậy, việc không khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam đối với người phạm tội bị áp dụng hình phạt tiền là chưa bảo đảm được quyền lợi chính đáng của người phạm tội. Về vấn đề này, theo tác giả, Tòa án có thẩm quyền xác định mức thu nhập bình quân của người bị kết án phạt tiền, trên cơ sở đó, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam sẽ được khấu trừ một khoản tiền tương ứng với một ngày công lao động của người đó. Trong trường hợp người bị kết án không có thu nhập hoặc thu nhập không ổn định thì việc xác định mức khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam theo ngày cần dựa vào mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

Thứ sáu, về đối tượng áp dụng hình phạt tiền.

Bên cạnh chủ thể của tội phạm là người phạm tội thì Bộ luật Hình sự năm 2015 còn quy định chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại phạm tội. Theo đó, hình phạt tiền (hình phạt chính và hình phạt bổ sung) cũng được Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định áp dụng đối với chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại. Theo quy định tại Điều 76 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì hình phạt tiền có thể áp dụng đối với pháp nhân thương mại khi pháp nhân thương mại phạm một trong 33 tội danh thuộc các nhóm tội phạm kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại; nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh kế; nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Tuy nhiên, hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn về trình tự, thủ tục, điều kiện áp dụng và thi hành hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại, điều này gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi áp dụng pháp luật.

Vì vậy, theo tác giả, cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn quy định về trình tự, thủ tục áp dụng hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội để thực hiện áp dụng thống nhất pháp luật, bảo đảm sự bình đẳng, công bằng cũng như bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân.

ThS. Nguyễn Đình Văn

Trường Đại học Cảnh sát nhân dân

[1]. Cục Đào tạo, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần những quy định chung), Nxb. Lao Động, Hà Nội, năm 2021, tr. 196.

[2]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 388), tháng 9/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam đối với việc thực hiện điều ước quốc tế, từ đó, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, bảo đảm công tác giám sát thực hiện điều ước quốc tế ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả.
Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tóm tắt: Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đề cao quyền tự quyết của các bên, vì thủ tục này chỉ được tiến hành khi các bên có thỏa thuận trọng tài. Cơ chế tự do thỏa thuận đặt ra vấn đề, liệu các bên có được thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện để đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài hay không? Bài viết phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về khả năng thỏa thuận thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, so sánh với pháp luật của một số quốc gia về vấn đề này; từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản số từ kinh nghiệm pháp luật quốc tế và một số quốc gia

Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản số từ kinh nghiệm pháp luật quốc tế và một số quốc gia

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích một số nội dung cơ bản về thế chấp bằng tài sản số trong pháp luật quốc tế và của một số quốc gia; từ đó, kiến nghị một số chính sách để Việt Nam có thể nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hành lang pháp lý phù hợp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, giúp kinh tế tư nhân phát triển mạnh và bền vững hơn.
Xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận như khái niệm, quan điểm và yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương trong bối cảnh hiện nay. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Quy định về quyền bề mặt theo pháp luật dân sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện

Quy định về quyền bề mặt theo pháp luật dân sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về quyền bề mặt qua các thời kỳ; chỉ ra một số bất cập trong quy định pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về quyền bề mặt ở Việt Nam thời gian qua; từ đó, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Trước yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hoàn thiện pháp luật hình sự nói riêng là yêu cầu tất yếu. Bài viết phân tích chính sách, pháp luật hình sự hiện hành và một số yêu cầu đặt ra trong bối cảnh hiện nay, từ đó, đề xuất một số định hướng hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Xuất phát từ luận điểm quá trình tố tụng hình sự là biểu hiện của việc thực hiện quyền tư pháp trong thực tiễn, bài viết đánh giá thực trạng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vấn đề này, từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm tiếp tục kiểm soát có hiệu quả quyền tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian tới.
Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Trọng tài thương mại trực tuyến có thể được coi là sự sáng tạo và nâng cấp so với trọng tài thương mại truyền thống, đặc biệt, trong thời đại công nghệ số và phát triển nền kinh tế số, có rất nhiều hợp đồng thương mại được ký kết thông qua chữ ký số, hợp đồng thương mại điện tử… Trọng tài thương mại trực tuyến là phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thông qua ứng dụng công nghệ thông tin và phương thức điện tử. Bài viết nghiên cứu, làm rõ về trọng tài thương mại trực tuyến; nhận diện những thách thức khi áp dụng trọng tài trực tuyến để giải quyết tranh chấp thương mại; từ đó, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
nha-hang-thai-village
delta-group
khach-san-ladalat
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi