Chủ nhật 20/07/2025 09:46
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hợp đồng dân sự giả tạo - Thực trạng và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Trong bài viết này, tác giả phân tích làm rõ khái niệm về hợp đồng dân sự giả tạo, thực trạng ký kết các hợp đồng dân sự giả tạo hiện nay ở Việt Nam và đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật.

1. Hợp đồng dân sự giả tạo - Khái niệm, đặc điểm và hậu quả pháp lý

Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa nêu rõ khái niệm thế nào là hợp đồng dân sự giả tạo. Tuy nhiên, căn cứ vào giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo tại Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015, có thể hiểu: Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự đó vô hiệu do giả tạo.

Như vậy, hợp đồng dân sự giả tạo là một loại hợp đồng dân sự được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác. Hợp đồng giả tạo không có giá trị pháp lý và không phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên. Hợp đồng giả tạo sẽ chịu sự điều chỉnh pháp lý quy định tại Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015 về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo như sau:

(i) Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 hoặc luật khác có liên quan.

(ii) Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.

Như vậy, hợp đồng dân sự giả tạo không phải là ý chí thực của hai bên, được thiết lập trên cơ sở một quan hệ dân sự khác trước đó và nhằm che giấu một giao dịch khác nên không có hiệu lực pháp luật, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên do giả tạo. Hợp đồng dân sự giả tạo được xác lập về mặt hình thức nhưng không phải là ý chí thực của các bên; các bên không thực hiện các nghĩa vụ theo nội dung hợp đồng đã ký kết; việc ký kết hợp đồng này chỉ để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ nào đó của một hợp đồng khác, che giấu bởi một giao dịch khác thì đương nhiên hợp đồng này không phát sinh hiệu lực. Pháp luật không thừa nhận và bảo vệ loại hợp đồng này, hợp đồng này bị vô hiệu theo quy định của luật.

2. Thực trạng ký kết các hợp đồng dân sự giả tạo hiện nay ở Việt Nam

Hiện nay, tình trạng các bên lập hợp đồng dân sự giả tạo ngày càng nhiều, đặc biệt là trong các giao dịch mua bán, vay vốn, chuyển nhượng. Việc lập hợp đồng dân sự giả tạo phổ biến rơi vào hai trường hợp sau:

Trường hợp thứ nhất: Giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với giá trị thấp hơn so với giá trị thực tế khi mua bán. Theo quy định của pháp luật, thuế thu nhập cá nhân khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất là 2% giá trị chuyển nhượng ghi trên hợp đồng chuyển nhượng. Tuy nhiên, nhằm mục đích giảm chi phí về thuế phải đóng, các bên đã thỏa thuận ký kết một hợp đồng khác với giá chuyển nhượng thấp hơn so với giá trị thực tế (hợp đồng giả tạo). Hợp đồng giả tạo này được sử dụng trong việc kê khai thuế và làm thủ tục sang tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất nhằm giảm, trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế, phí đối với Nhà nước. Việc ký kết loại hợp đồng này tiềm ẩn hậu quả pháp lý: (i) Luật Quản lý thuế quy định rõ việc người nộp thuế có nghĩa vụ khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng thời hạn, chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ của hồ sơ thuế… Điều đó có nghĩa là, khi người bán và người mua cố tình kê khai giá “ảo” trong hợp đồng chuyển nhượng để “né” thuế thì hành vi đó là vi phạm pháp luật. Hành vi này có thể bị tiến hành truy thu, xử phạt hành chính, thậm chí xử hình sự về tội trốn thuế theo quy định tại Điều 200 Bộ luật Hình sự năm 2015; (ii) Bên bán còn có thể gặp rủi ro lớn nếu gặp phải trường hợp bên mua không hoàn trả đúng số tiền thực tế đã thỏa thuận cho bên bán dẫn đến tình trạng kiện tụng, mất thời gian và công sức của các bên.

Trường hợp thứ hai: Vay tiền/tài sản dưới hình thức chuyển nhượng/mua bán tài sản. Trong quan hệ vay mượn tài sản, để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ thì bên cho vay yêu cầu bên vay nợ phải sang tên bất động sản của mình cho bên cho vay, nếu đến thời điểm trả nợ mà bên đi vay không trả được nợ thì bên cho vay có quyền định đoạt bất động sản đó để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ. Hoặc trong trường hợp hợp đồng vay tài sản, để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ thì bên cho vay yêu cầu bên đi vay phải sang tên cổ phần doanh nghiệp của mình cho bên cho vay để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ. Trong các giao dịch này thì hợp đồng vay tài sản là quan hệ dân sự có thật, có trước và được pháp luật bảo vệ, còn việc chuyển nhượng bất động sản hoặc sang tên cổ phần chỉ là giả tạo (các bên không có ý chí, không có mục đích mua bán, chuyển nhượng). Các hợp đồng mua bán, chuyển nhượng này là không có thật, chỉ nhằm che giấu cho giao dịch vay tài sản, bản chất các bên hướng đến chính là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, không phải ý chí mua bán, chuyển nhượng thực giữa các bên.

Trong thực tế, các đối tượng cho vay thường nhắm đến những cá nhân có nhu cầu vay cấp thiết và thiếu hiểu biết pháp luật để ký kết các hợp đồng giả tạo. Mặc dù mục đích theo bên cho vay nói với bên vay là để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhưng thực chất là để chiếm đoạt tài sản khi bên vay không thanh toán được khoản vay hoặc vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng, thông qua sự thiếu hiểu biết của bên vay, bên cho vay sẽ đề nghị ký hợp đồng chuyển nhượng quyền tài sản để bảo đảm nghĩa vụ trả khoản vay. Những hợp đồng này đa số là hợp đồng chuyển nhượng giả tạo nhằm che đậy giao dịch vay mượn tài sản. Trong đó, thông thường sẽ có điều kiện nếu người vay tiền vi phạm thỏa thuận về thời gian trả lãi, trả nợ gốc thì mặc định tài sản này được chuyển dịch sang tên người cho vay. Ban đầu người đi vay không có ý định này hoặc không đọc kỹ và không am hiểu pháp luật nên cũng không thể lường trước hậu quả xảy ra nên vẫn thực hiện việc ký hợp đồng giả tạo.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến ký hết hợp đồng giả tạo như: Do người vay tiền muốn nhanh chóng nhận được tiền để giải quyết kịp thời khó khăn, cấp bách nên đồng ý ký vào hợp đồng giả tạo; thiếu hiểu biết pháp luật, tin tưởng vào đối phương không lấy tài sản của mình, mà chỉ bảo đảm tiền vay, không đọc kỹ hợp đồng, có ý nghĩ tài sản mình đang quản lý là còn của mình; người vay tiền ngại đến ngân hàng vay tiền vì thủ tục ngân hàng cho vay rườm rà; người cho vay nặng lãi, tổ chức tín dụng đen muốn chiếm đoạt tài sản của người đi vay…

3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng dân sự giả tạo

So với Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có những quy định rõ ràng, khả thi hơn, phù hợp với thực tế hơn. Tuy nhiên, sau gần 10 năm thực hiện thì những quy định này cũng gặp phải những vướng mắc trong quá trình áp dụng vào các trường hợp xảy ra trên thực tế, do đó, chưa thực sự bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia, cụ thể như sau:

Một là, quy định các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận chưa thực sự bảo đảm được lợi ích của các chủ thể, đặc biệt là trong các hợp đồng mua bán quyền sử dụng đất. Ví dụ, trong trường hợp bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã xây dựng nhà ở, công trình trên mảnh đất đó, sau đó, hợp đồng chuyển nhượng bị tuyên bố vô hiệu, thì Tòa án buộc bên nhận chuyển nhượng phải tháo dỡ công trình trên đất để trả lại hiện trạng đất ban đầu cho bên chuyển nhượng. Trường hợp này dù làm đúng quy định của luật nhưng không phát huy được hiệu quả về mặt kinh tế, thậm chí gây tổn thất, thiệt hại lớn cho các bên.

Hai là, trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả cũng gặp khó khăn trong quá trình xác định giá tiền. Giá tiền của tài sản được xác định tại thời điểm xác lập hợp đồng hay xác định tại thời điểm phát sinh tranh chấp? Đặc biệt là việc xác định giá bất động sản vì giá chuyển nhượng bất động sản theo giá thị trường và theo khung giá Nhà nước có sự khác biệt rất lớn, phụ thuộc nhiều vào sự thỏa thuận của bên mua và bên bán. Hoặc trường hợp tài sản là vật đặc định, khó có thể tìm được vật tương ứng để định giá.

Ba là, chưa có quy định cụ thể về mức độ lỗi, trách nhiệm của các bên. Trong trường hợp cả người gây ra thiệt hại và người bị hại đều có lỗi, thì trách nhiệm của mỗi bên sẽ được giải quyết như thế nào? Việc xác định trách nhiệm hỗn hợp gặp nhiều khó khăn do khi thiệt hại phát sinh các bên đều có lỗi.

Do vậy, để hạn chế tình trạng ký kết hợp đồng giả tạo, cần thực hiện một số giải pháp, đề xuất sau đây[1]:

- Về quy định hợp đồng giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba, có thể thấy, việc giao kết hợp đồng nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba đã đủ coi là vô hiệu mà không cần xem xét tới yếu tố giả tạo. Do đó, để thống nhất trong giải quyết tranh chấp thực tế phát sinh liên quan đến hợp đồng giao kết nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba và hợp đồng giả tạo nên sửa đổi theo hướng tách biệt quy định giữa hai giao dịch này, cụ thể: “Trong trường hợp xác lập giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu”.

- Về quy định hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu: Pháp luật cần quy định cụ thể về xác định lỗi gây thiệt hại phải bồi thường để tạo sự thống nhất trong khoa học pháp lý cũng như thực tiễn áp dụng. Ngoài ra đối với quy định không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả, cũng cần cân nhắc sửa đổi, bổ sung quy định một cách cụ thể, rõ ràng hơn việc xác định giá tiền ngang bằng với vật để thanh toán nhằm bảo đảm quyền, lợi ích của các bên.

- Về thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do giả tạo: Để tránh những mâu thuẫn trong quá trình áp dụng luật, cần xác định thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo bằng con số cụ thể. Thời hiệu này có thể tương đồng với quy định về thời hiệu xác lập quyền sở hữu (tại Điều 236 Bộ luật Dân sự năm 2015). Theo đó, đối với hợp đồng dân sự giả tạo có đối tượng là bất động sản thì thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu là 30 năm, còn đối với các hợp đồng dân sự giả tạo có đối tượng là động sản thì thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu là 10 năm kể từ thời điểm xác lập hợp đồng.

Ngoài ra, để tránh rơi vào tình trạng hợp đồng dân sự giả tạo, người dân cần tìm hiểu và nhờ người hiểu biết về pháp luật tìm hiểu kỹ các nội dung pháp lý trước khi ký kết hợp đồng. Khi thiết lập một hợp đồng dân sự giả tạo, không phải lúc nào bản thân chủ thể cũng nhận thức được hậu quả xảy ra. Có những trường hợp vì không hiểu rõ được tính chất của vấn đề bị các đối tượng khác lừa gạt. Vì vậy, Nhà nước (chính quyền các địa phương) cần phải tăng cường các biện pháp tuyên truyền rộng rãi các quy định pháp luật về vấn đề này đến mọi người dân.

Thực tiễn cho thấy, việc xác định hợp đồng dân sự giả tạo là rất khó khăn, đặc biệt trong hoạt động cho vay tài sản. Thông thường, bên vay không có giấy tờ chứng minh tại Tòa án khiến cho vụ việc trở nên phức tạp, khó khăn. Có những vụ việc, thậm chí người vay đã trả tiền lãi và một phần nợ gốc nhưng không có giấy biên nhận trả nợ để làm căn cứ chứng minh đó là giao dịch vay tài sản mà không phải là mua bán tài sản gây khó khăn cho Tòa án các cấp trong giải quyết các vụ án này. Để thống nhất áp dụng pháp luật, tránh việc hủy, sửa bản án nhiều lần, Tòa án nhân dân tối cao cần sớm có hướng dẫn, giải thích pháp luật và lựa chọn Án lệ khi giải quyết các vụ việc về hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo quy định tại Điều 121 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trong thời gian tới, cần cân nhắc bổ sung các quy định trong việc xác minh tính khách quan khi thực hiện công chứng, để việc chứng nhận tính xác thực của giao dịch không chỉ là chứng nhận các bên có thỏa thuận, xác lập giao dịch với nội dung thể hiện trên văn bản mà đối tượng và đặc điểm của tài sản các bên giao dịch cũng cần phải được kiểm tra, xác minh cụ thể trên thực tế. Bên cạnh đó, cần nâng cao nghiệp vụ của công chứng viên và trách nhiệm của các Văn phòng công chứng. Khi thực hiện hoạt động công chứng, công chứng viên phải biết rõ những gì các bên hướng tới, mong muốn đạt được khi tham gia giao dịch đúng như đối tượng đặc trưng của các loại hợp đồng, giao dịch mà các bên giao kết[2].

Tóm lại, các quy định về giao dịch dân sự giả tạo nói chung và hợp đồng dân sự được xác lập do giả tạo nói riêng không có nhiều thay đổi qua các thời kỳ. Tuy nhiên, việc vận dụng để thực thi quy định trên thực tiễn không hề đơn giản. Vì vậy, cần có những sửa đổi, bổ sung quy định của văn bản pháp luật cho phù hợp, đồng thời có những hướng dẫn nghiệp vụ của cơ quan xét xử để tránh sự thiếu thống nhất trong các bản án dân sự khi xét xử cùng một nội dung liên quan./.

ThS. Chung Lê Hồng Ân

Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh

[1]. Hoàn thiện quy định của Bộ luật dân sự về hợp đồng vô hiệu do giả tạo, https://tapchicongthuong.vn/hoan-thien-quy-dinh-cua-bo-luat-dan-su-ve-hop-dong-vo-hieu-do-gia-tao-97876.htm.

[2]. Những rủi ro, hệ lụy khi ký kết hợp đồng giả cách và một số giải pháp ngăn chặn, https://phaply.net.vn/nhung-rui-ro-he-luy-khi-ky-ket-hop-dong-gia-cach-va-mot-so-giai-phap-ngan-chan-a256669.html.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 406), tháng 6/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bàn về luật công, luật tư trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

Bàn về luật công, luật tư trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về việc xây dựng, phân chia hệ thống pháp luật trên nền tảng của luật công, luật tư; làm rõ ý nghĩa, vai trò cơ bản của việc phân chia luật công, luật tư; từ đó, gợi mở một số giải pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện pháp luật về xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại

Hoàn thiện pháp luật về xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại

Bài viết phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn pháp luật về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng tại ngân hàng; đồng thời, làm rõ các vướng mắc, bất cập trong quy định pháp luật hiện hành, đặc biệt, khi có sự tham gia của bên thứ ba như bên tài trợ vốn, bên kiểm soát, bên đầu tư vào quyền tài sản. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật để bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các chủ thể, đồng thời, tăng cường an toàn pháp lý cho hoạt động cấp tín dụng bảo đảm bằng quyền tài sản.
Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Trong bối cảnh công nghệ số phát triển mạnh mẽ, việc bảo vệ dữ liệu cá nhân nói chung, đặc biệt là dữ liệu của trẻ em - đối tượng dễ bị tổn thương - trở thành vấn đề cấp thiết. Thời gian qua, mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em nhưng thực tế vẫn còn nhiều hạn chế, thách thức cần giải quyết. Bài viết tập trung phân tích khung pháp lý hiện hành của Việt Nam về bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em, đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế, đồng thời, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nhằm bảo đảm quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ em trong môi trường số.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Thực tiễn cho thấy, việc thể chế hóa chế định quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm Thi hành Hiến pháp năm 2013 đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng cũng còn hạn chế, khó khăn nhất định. Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân cần thực hiện đúng, đầy đủ trách nhiệm theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và thể chể hóa các chủ trương, chính sách mới của Đảng về đổi mới tư duy xây dựng, thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Bài viết phân tích các quy định về giới hạn và điều kiện áp dụng hình phạt trong luật nhân quyền quốc tế, qua đó, chứng minh luật nhân quyền quốc tế đặt ra những giới hạn và điều kiện về bản chất, mức độ, đối tượng, thủ tục áp dụng hình phạt trong tố tụng hình sự nhằm ngăn chặn sự lạm quyền trong việc phòng, chống tội phạm và thúc đẩy tính nhân đạo của tư pháp hình sự. Đồng thời, bài viết cũng khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm của Cộng hòa liên bang Đức, Na Uy, Canada và Nam Phi, qua đó, gợi ý một số cải cách để Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc góp phần hoàn thiện pháp luật về áp dụng hình phạt tiệm cận hơn với các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế về vấn đề này.
Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Xử phạt vi phạm hành chính là một trong những công cụ hữu hiệu để Nhà nước đấu tranh và phòng ngừa vi phạm hành chính. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính đang được sửa đổi và dự kiến thông qua tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV với nhiều điểm mới, đặc biệt là các quy định liên quan đến thủ tục xử phạt vi phạm hành chính. Bài viết phân tích, luận giải một số vấn đề như điều kiện xử phạt hành chính không lập biên bản, quyền giải trình đối với trường hợp xử phạt theo thủ tục không lập biên bản, thời hạn chuyển biên bản vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt, về người chứng kiến ký biên bản vi phạm hành chính và kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy về định thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Bài viết tập trung phân tích những vướng mắc, bất cập của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2017, 2020, 2022 (Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012) về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan.
Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Theo quy định pháp luật, thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc về Tòa án nhân dân cấp huyện. Để áp dụng biện pháp này, các cơ quan hành chính phải lập hồ sơ đề nghị để Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định cho phép thực hiện. Bài viết nghiên cứu, phân tích về thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đồng thời, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước.
Bất cập trong nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và đề xuất, kiến nghị

Bất cập trong nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và đề xuất, kiến nghị

Bài viết chỉ ra những bất cập về nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và từ đó, đề xuất kiến nghị giúp khắc phục bất cập trong công tác xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức.
Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi