Thứ sáu 05/09/2025 16:30
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thực trạng và giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013

Bài viết khái quát nội dung và thực trạng thực hiện nguyên tắc quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013 ở Việt Nam, từ đó, đề xuất một số giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn.

1. Nguyên tắc quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013

“Nguyên tắc” được hiểu là “điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”[1]. Theo đó, có thể hiểu, nguyên tắc quyền con người là những tư tưởng, luận điểm cơ bản, chủ đạo về vấn đề quyền con người được thể hiện trong Hiến pháp, pháp luật của quốc gia. Ở Việt Nam, các nguyên tắc này được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 với tư cách là đạo luật gốc của quốc gia và được cụ thể hóa thành các quy phạm pháp luật trong chế định quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp năm 2013 xác định các nguyên tắc quyền con người, quyền công dân như sau:

Một là, nguyên tắc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Nguyên tắc này được quy định tại khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 như sau: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ ràng, minh bạch và có thiện chí trách nhiệm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bảo đảm quyền con người, quyền công dân như là những giá trị trân quý nhất và là lẽ sống duy nhất của chính mình[2]. Nhà nước là chủ thể chịu trách nhiệm đầu tiên và sau cùng trong bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Nguyên tắc này yêu cầu Nhà nước phải “công nhận” quyền con người, quyền công dân, điều này thể hiện thông qua các hành vi như ghi nhận trong quy định của Hiến pháp, pháp luật; gia nhập, nội luật hóa và thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người một cách tận tâm, thiện chí. “Tôn trọng” có nghĩa là Nhà nước phải kiềm chế các hành vi cản trở việc thụ hưởng quyền con người, quyền công dân. “Bảo vệ” đòi hỏi Nhà nước phải có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền con người, quyền công dân từ bên thứ ba và từ chính các nhân viên nhà nước. “Bảo đảm” tức là Nhà nước phải tạo những điều kiện thuận lợi nhất để cá nhân có thể thực hiện được quyền con người, quyền công dân của mình.

Hai là, nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân.

Nguyên tắc này được quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 như sau: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Đây là một nội dung quan trọng của Hiến pháp năm 2013 cũng như lịch sử lập hiến Việt Nam khi lần đầu tiên quy định nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân; bảo đảm phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người. Theo đó, để hạn chế quyền con người, quyền công dân cần thỏa mãn đồng thời các điều kiện: (i) Chủ thể duy nhất có quyền hạn chế quyền con người, quyền công dân là Quốc hội và chỉ được thể hiện thông qua hình thức là ban hành luật; (ii) Sự hạn chế quyền con người, quyền công dân phải thực sự cần thiết và tương xứng giữa mục đích và phương tiện trong hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước[3]; (iii) Các lý do của hạn chế quyền con người, quyền công dân là bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.

Ba là, nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

Nguyên tắc này được quy định tại Điều 16 Hiến pháp năm 2013 như sau: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Theo đó, tất cả mọi người không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội đều được đối xử một cách như nhau, công bằng trước pháp luật và trong tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Mọi người đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, bình đằng về trách nhiệm pháp lý, bình đằng giữa Nhà nước và công dân. Đây cũng là một yêu cầu trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là pháp luật giữ vị trí tối thượng, không một cá nhân, tổ chức nào có thể đứng trên pháp luật. Nguyên tắc này đặt ra yêu cầu, Nhà nước phải xây dựng cơ chế phòng ngừa sự phân biệt đối xử giữa các cá nhân và tạo được môi trường bình đẳng về cơ hội một cách toàn diện.

Bốn là, nguyên tắc quyền con người, quyền công dân không tách rời nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội, nghĩa vụ công dân.

Nguyên tắc này được quy định tại Điều 15 Hiến pháp năm 2013 như sau: “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Mọi người đều có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Nguyên tắc này thể hiện tính thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ, trong xã hội dân chủ, không thể có quyền tách rời nghĩa vụ hoặc phải gách vác nghĩa vụ mà không có quyền. Nội dung này phù hợp với quy định của Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948: “Ai cũng có nghĩa vụ đối với cộng đồng mà trong đó nhân cách của mình có thể được phát triển một cách tự do và đầy đủ”, nhằm hướng tới xây dựng một xã hội trong đó lợi ích của cá nhân được đặt hài hòa trong lợi ích của người khác, cộng đồng, xã hội, quốc gia, dân tộc.

2. Thực trạng thực hiện nguyên tắc quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam

2.1. Những kết quả đạt được

Kể từ khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành, Việt Nam luôn thực hiện có hiệu quả các nguyên tắc quyền con người, quyền công dân, không chỉ minh định trong hệ thống pháp luật mà còn triển khai trong thực tiễn.

Hệ thống pháp luật Việt Nam đã ghi nhận đầy đủ các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và các công ước quốc tế về quyền con người như quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, quyền có nơi ở hợp pháp, quyền tự do đi lại và cư trú, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền tự do ngôn luận, quyền việc làm… Đồng thời, Nhà nước cũng thiết lập cơ chế bảo vệ quyền con người, quyền công dân thông qua chế tài xử phạt các hành vi xâm phạm quyền con người, quyền công dân của bên thứ ba với nhiều cấp độ khác nhau như chế tài hành chính, chế tài hình sự; đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức còn phải chịu thêm chế tài kỷ luật. Nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân, Nhà nước cũng ban hành và thực thi nhiều chính sách tạo cơ hội cho các cá nhân hưởng thụ quyền như tập trung vào thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia, nâng cao chất lượng cuộc sống. Tổng nguồn vốn được huy động để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 là 75.000 tỷ đồng (tương đương 03 tỷ USD). Thu nhập bình quân đầu người tăng trưởng tích cực, năm 2023 đạt hơn 100 triệu đồng (tương đương với 4.000 USD), tăng 25% so với năm 2019[4].

Thực hiện nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật, Việt Nam đã bảo đảm tính độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án, quyền của người dân được xét xử công bằng và theo đúng trình tự, phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Các bản án cũng được công khai trên mạng internet, tạo cơ hội bình đẳng cho người dân tiếp cận công lý và góp phần nâng cao nhận thức của người dân trước pháp luật. Hiện nay, Quốc hội cũng đang thảo luận dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), trong đó có nội dung tăng tính độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án.

2.2. Những khó khăn, thách thức

Thứ nhất, nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân được ghi nhận tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 chưa minh định về việc tất cả các quyền đều có thể bị hạn chế hay chỉ có thể hạn chế đối với một số quyền, chưa làm rõ thế nào là “trường hợp cần thiết”, “lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”, trong khi đây là những nội dung quan trọng, cần phải làm rõ nhằm kiểm soát tình trạng tùy tiện thực hiện những hành vi hạn chế quyền con người, quyền công dân từ chính các cơ quan nhà nước.

Thứ hai, Hiến pháp năm 2013 chưa quy định về vấn đề tạm đình chỉ quyền con người, quyền công dân, cũng như các ngoại lệ của việc tạm đình chỉ thực hiện quyền. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc này cũng cho thấy, có cơ quan nhà nước khi ban hành văn bản pháp luật đã hạn chế các quyền con người, quyền công dân đến mức vi phạm, can thiệp vào các quyền con người, quyền công dân[5], chẳng hạn, chính quyền một số địa phương đã ban hành văn bản quản lý hành chính có quy định hạn chế quyền như quy định nghiêm cấm cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên, học sinh trên địa bàn bình luận, thích (like), chia sẻ (share), đăng nội dung các vấn đề liên quan đến chế độ chính sách, chính trị, tôn giáo, làm ảnh hưởng đến uy tín của người khác[6]. Quy định này đã vi phạm quyền tự do ngôn luận theo Hiến pháp năm 2013, bởi lẽ, việc chia sẻ, bình luận thông tin là quyền của mỗi công dân được làm những gì mà pháp luật không cấm và hành vi đó không vi phạm pháp luật.

Thứ ba, một số quyền con người, quyền công dân mặc dù đã được ghi nhận như quyền lập hội, biểu tình… và Hiến pháp năm 2013 xác định việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn chưa có cơ chế cụ thể để cá nhân có thể thực hiện quyền của mình.

3. Giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013

Thứ nhất, tiếp tục thể chế hóa nguyên tắc quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013.

Ban hành các quy định giải thích rõ ràng nội dung các nguyên tắc quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013. Cần làm rõ những quyền được hạn chế, quyền không được hạn chế trong những trường hợp cụ thể, bởi lẽ, theo quan điểm của luật nhân quyền quốc tế, có một số quyền tuyệt đối không thể bị hạn chế trong bất kỳ trường hợp nào như quyền không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo và nhục hình, quyền thừa nhận tư cách thể nhân trước pháp luật. Tiếp tục cụ thể hóa thành các quy định của pháp luật về nguyên nhân hạn chế quyền con người, quyền công dân, cũng như các phương thức hạn chế quyền con người, quyền công dân. Rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật bảo đảm không mâu thuẫn, chồng chéo, không để tồn tại các văn bản dưới luật có quy định làm hạn chế quyền con người, quyền công dân.

Tiếp tục thể chế hóa và thực hiện có hiệu quả các quyền con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 như quyền được sống trong môi trường trong lành; quyền xác định dân tộc; quyền của người chuyển giới tính, người đồng tính, lưỡng tính; quyền của người chấp hành án phạt tù, quyền của bị can, bị cáo. Sớm hoàn thành việc xây dựng và ban hành các văn luật liên quan đến quyền dân sự, chính trị như: Luật về Hội, Luật Biểu tình, Luật Giám sát, Luật Chuyển giới; nghiên cứu ban hành Luật Chống phân biệt đối xử. Tiếp tục hoàn thiện các quy định bảo đảm quyền bình đẳng tiếp cận các dịch vụ công của mọi người, trong đó, chú trọng đối tượng thụ hưởng là các nhóm xã hội dễ bị tổn thương như: Luật Tiền lương tối thiểu, Luật Trợ giúp xã hội, Luật về công tác xã hội, Luật Hiến máu, Luật Dự phòng và hỗ trợ phục hồi cho người sử dụng ma túy, Luật Bảo vệ sức khỏe tâm thần, Luật Dân số, Luật về người có công với nước, Luật Phòng, chống mại dâm, Luật An sinh xã hội[7]…

Thứ hai, nâng cao nhận thức về thực hiện nguyên tắc quyền con người, quyền công dân.

Việc nâng cao nhận thức của các chủ thể, đặc biệt là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước về thực hiện các nguyên tắc quyền con người, quyền công dân có ý nghĩa quan trọng góp phần hạn chế các hành vi lạm quyền, lộng quyền, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Để nâng cao nhận thức cần làm tốt công tác quán triệt, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, pháp luật quốc tế về quyền con người bảo đảm tính kịp thời, thường xuyên, nội dung phù hợp với đối tượng, hình thức, phương pháp đa dạng phong phú. Đặc biệt, nâng cao chất lượng giáo dục quyền con người trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông đa phương tiện trong hoạt động phổ biến, giáo dục quyền con người.

Thứ ba, đổi mới tổ chức, hoạt động của các thiết chế bảo đảm quyền con người và nghiên cứu thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia.

Việt Nam có nhiều thiết chế tham gia vào hoạt động bảo đảm quyền con người như hệ thống các cơ quan nhà nước, Đảng Cộng sản Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan truyền thông báo chí và các tổ chức khác. Vì vậy, cần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng thông qua việc các cấp ủy, tổ chức Đảng thực hiện tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng như Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 05/01/2022 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân dân trong hình hình mới, Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 16/4/2020 của Ban Bí thư về đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xuất bản, phát hành và nghiên cứu, học tập sách lý luận, chính trị… Đồng thời, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các thiết chế nhà nước và phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan truyền thông báo chí trong bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Tiếp tục nghiên cứu thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia là sự bổ sung bảo đảm tốt hơn quyền con người ở Việt Nam, mà không thay thế các thiết chế hiện hành đang thực hiện chức năng, nhiệm vụ này. Có nhiều mô hình cơ quan nhân quyền quốc gia trên thế giới, nhưng có 03 dạng chính đó là: Cơ quan thanh tra Quốc hội, Ủy ban nhân quyền quốc gia, Cơ quan chuyên trách về một vấn đề nhân quyền cụ thể. Việc thành lập Cơ quan nhân quyền quốc gia cần quán triệt các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và các nguyên tắc hiến định về quyền con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Việc lựa chọn mô hình nào cần phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng, tuy nhiên, trong hoàn cảnh cụ thể nước ta, phương án khả thi và phù hợp hơn cả đó là cải tổ, nâng cấp các thiết chế có sẵn trong hệ thống chính trị thành Cơ quan nhân quyền quốc gia.

Thứ tư, thường xuyên thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm nguyên tắc quyền con người, quyền công dân.

Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm có vai trò quan trọng góp phần bảo đảm các nguyên tắc quyền con người, quyền công dân được thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả các cơ chế kiểm tra của Đảng, thanh tra của Nhà nước, giám sát của Nhân dân đối với việc thực hiện nguyên tắc quyền con người, quyền công dân; tránh sự chồng chéo, trùng lặp, bỏ sót các vi phạm. Các nguyên tắc quyền con người, quyền công dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013, vì vậy, các vi phạm nguyên tắc đều là hành vi vi hiến và cần phải được xử lý nghiêm minh, không có ngoại lệ. Tuy nhiên, hiện nay, cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam vẫn chưa thực sự đầy đủ, cụ thể, thiếu tính hệ thống; yêu cầu đặt ra đó là phải hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp cũng là bảo vệ ý chí của Nhân dân, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Hiến pháp năm 2013 là bản Hiến pháp đánh dấu đổi mới tư duy của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với vấn đề quyền con người, quyền công dân khi minh định, công khai các nguyên tắc quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, thực tiễn 10 năm triển khai thi hành đã chỉ ra rằng, cần tiếp tục làm rõ nội hàm các vấn đề hạn chế quyền, cơ chế thực hiện quyền nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành, qua đó, bảo vệ, bảo đảm được quyền và lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức trong xã hội./.

TS. Phạm Thị Ngọc Dung

Học viện Chính trị khu vực I

[1]. Viện Ngôn ngữ học (1996), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, tr. 672.

[2]. Nguyễn Đăng Dung, Trương Đắc Linh, Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang, Nguyễn Văn Trí (2011), “Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp - Kinh nghiệm thế giới và Việt Nam”, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, tr. 39 - 47.

[3]. Lưu Đức Quang (2016), “Nguyên tắc Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 74.

[4]. Báo cáo quốc gia về bảo vệ và thúc đảy quyền con người ở Việt Nam theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV.

[5]. Nguyễn Văn Hiển, Trương Hồng Quang (2019), “Nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013”, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 105.

[6]. https://plo.vn/cam-giao-vien-binh-luan-facebook-va-quyen-tu-do-ngon-luan-post364176.html, truy cập ngày 05/5/2024.

[7]. https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2612, truy cập ngày 15/5/2024.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 406), tháng 6/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Trước yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hoàn thiện pháp luật hình sự nói riêng là yêu cầu tất yếu. Bài viết phân tích chính sách, pháp luật hình sự hiện hành và một số yêu cầu đặt ra trong bối cảnh hiện nay, từ đó, đề xuất một số định hướng hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Xuất phát từ luận điểm quá trình tố tụng hình sự là biểu hiện của việc thực hiện quyền tư pháp trong thực tiễn, bài viết đánh giá thực trạng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vấn đề này, từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm tiếp tục kiểm soát có hiệu quả quyền tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian tới.
Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Trọng tài thương mại trực tuyến có thể được coi là sự sáng tạo và nâng cấp so với trọng tài thương mại truyền thống, đặc biệt, trong thời đại công nghệ số và phát triển nền kinh tế số, có rất nhiều hợp đồng thương mại được ký kết thông qua chữ ký số, hợp đồng thương mại điện tử… Trọng tài thương mại trực tuyến là phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thông qua ứng dụng công nghệ thông tin và phương thức điện tử. Bài viết nghiên cứu, làm rõ về trọng tài thương mại trực tuyến; nhận diện những thách thức khi áp dụng trọng tài trực tuyến để giải quyết tranh chấp thương mại; từ đó, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam.
Pháp luật về phòng ngừa tiếng ồn - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng ngừa tiếng ồn - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Thông qua việc phân tích, đánh giá tầm quan trọng của phòng ngừa tiếng ồn và những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật, bài viết đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật điều chỉnh về vấn đề này nhằm góp phần hạn chế tác động tiêu cực từ nguồn, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
Hoàn thiện quy định pháp luật bảo đảm việc làm bền vững trong hoạt động của công ty đa quốc gia

Hoàn thiện quy định pháp luật bảo đảm việc làm bền vững trong hoạt động của công ty đa quốc gia

Việc làm bền vững là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Các công ty đa quốc gia (Multinational Enterprises - MNEs), thông qua hoạt động đầu tư, có vai trò đáng kể trong tạo việc làm, nâng cao thu nhập và thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp. Việt Nam đã nội luật hóa nhiều tiêu chuẩn lao động quốc tế, song còn tồn tại “khoảng trống” pháp lý trong bảo đảm việc làm bền vững, đặc biệt với MNEs. Bài viết phân tích nghĩa vụ của MNEs theo pháp luật quốc tế, đánh giá bất cập trong quy định pháp luật Việt Nam, từ đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện khung pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi người lao động và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững trong bối cảnh hội nhập.
Các mô hình, kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Các mô hình, kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích các mô hình lập pháp và kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc đổi mới quy trình lập pháp; trên cơ sở đó, liên hệ và gợi mở một số vấn đề cần tiếp tục sửa đổi để hoàn thiện mô hình, quy trình lập pháp ở Việt Nam hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền công dân thể hiện qua Hiến pháp năm 1946 và những giá trị được kế thừa, phát triển trong giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền công dân thể hiện qua Hiến pháp năm 1946 và những giá trị được kế thừa, phát triển trong giai đoạn hiện nay

Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ, kết tinh giá trị của thời đại, phản ánh tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh, là thành quả của công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của toàn dân tộc. Bài viết phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền công dân thể hiện qua bản Hiến pháp năm 1946 và đánh giá việc kế thừa, phát triển những tư tưởng này trong giai đoạn hiện nay.
Bàn về luật công, luật tư trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

Bàn về luật công, luật tư trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về việc xây dựng, phân chia hệ thống pháp luật trên nền tảng của luật công, luật tư; làm rõ ý nghĩa, vai trò cơ bản của việc phân chia luật công, luật tư; từ đó, gợi mở một số giải pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện pháp luật về xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại

Hoàn thiện pháp luật về xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại

Bài viết phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn pháp luật về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng tại ngân hàng; đồng thời, làm rõ các vướng mắc, bất cập trong quy định pháp luật hiện hành, đặc biệt, khi có sự tham gia của bên thứ ba như bên tài trợ vốn, bên kiểm soát, bên đầu tư vào quyền tài sản. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật để bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các chủ thể, đồng thời, tăng cường an toàn pháp lý cho hoạt động cấp tín dụng bảo đảm bằng quyền tài sản.
Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Trong bối cảnh công nghệ số phát triển mạnh mẽ, việc bảo vệ dữ liệu cá nhân nói chung, đặc biệt là dữ liệu của trẻ em - đối tượng dễ bị tổn thương - trở thành vấn đề cấp thiết. Thời gian qua, mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em nhưng thực tế vẫn còn nhiều hạn chế, thách thức cần giải quyết. Bài viết tập trung phân tích khung pháp lý hiện hành của Việt Nam về bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em, đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế, đồng thời, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nhằm bảo đảm quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ em trong môi trường số.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Thực tiễn cho thấy, việc thể chế hóa chế định quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm Thi hành Hiến pháp năm 2013 đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng cũng còn hạn chế, khó khăn nhất định. Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân cần thực hiện đúng, đầy đủ trách nhiệm theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và thể chể hóa các chủ trương, chính sách mới của Đảng về đổi mới tư duy xây dựng, thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Bài viết phân tích các quy định về giới hạn và điều kiện áp dụng hình phạt trong luật nhân quyền quốc tế, qua đó, chứng minh luật nhân quyền quốc tế đặt ra những giới hạn và điều kiện về bản chất, mức độ, đối tượng, thủ tục áp dụng hình phạt trong tố tụng hình sự nhằm ngăn chặn sự lạm quyền trong việc phòng, chống tội phạm và thúc đẩy tính nhân đạo của tư pháp hình sự. Đồng thời, bài viết cũng khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm của Cộng hòa liên bang Đức, Na Uy, Canada và Nam Phi, qua đó, gợi ý một số cải cách để Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc góp phần hoàn thiện pháp luật về áp dụng hình phạt tiệm cận hơn với các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế về vấn đề này.
Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Xử phạt vi phạm hành chính là một trong những công cụ hữu hiệu để Nhà nước đấu tranh và phòng ngừa vi phạm hành chính. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính đang được sửa đổi và dự kiến thông qua tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV với nhiều điểm mới, đặc biệt là các quy định liên quan đến thủ tục xử phạt vi phạm hành chính. Bài viết phân tích, luận giải một số vấn đề như điều kiện xử phạt hành chính không lập biên bản, quyền giải trình đối với trường hợp xử phạt theo thủ tục không lập biên bản, thời hạn chuyển biên bản vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt, về người chứng kiến ký biên bản vi phạm hành chính và kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy về định thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Bài viết tập trung phân tích những vướng mắc, bất cập của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2017, 2020, 2022 (Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012) về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan.
Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Theo quy định pháp luật, thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc về Tòa án nhân dân cấp huyện. Để áp dụng biện pháp này, các cơ quan hành chính phải lập hồ sơ đề nghị để Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định cho phép thực hiện. Bài viết nghiên cứu, phân tích về thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đồng thời, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi