Thứ sáu 05/12/2025 10:57
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thực trạng và giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013

Bài viết khái quát nội dung và thực trạng thực hiện nguyên tắc quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013 ở Việt Nam, từ đó, đề xuất một số giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn.

1. Nguyên tắc quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013

“Nguyên tắc” được hiểu là “điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”[1]. Theo đó, có thể hiểu, nguyên tắc quyền con người là những tư tưởng, luận điểm cơ bản, chủ đạo về vấn đề quyền con người được thể hiện trong Hiến pháp, pháp luật của quốc gia. Ở Việt Nam, các nguyên tắc này được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 với tư cách là đạo luật gốc của quốc gia và được cụ thể hóa thành các quy phạm pháp luật trong chế định quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp năm 2013 xác định các nguyên tắc quyền con người, quyền công dân như sau:

Một là, nguyên tắc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Nguyên tắc này được quy định tại khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 như sau: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ ràng, minh bạch và có thiện chí trách nhiệm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bảo đảm quyền con người, quyền công dân như là những giá trị trân quý nhất và là lẽ sống duy nhất của chính mình[2]. Nhà nước là chủ thể chịu trách nhiệm đầu tiên và sau cùng trong bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Nguyên tắc này yêu cầu Nhà nước phải “công nhận” quyền con người, quyền công dân, điều này thể hiện thông qua các hành vi như ghi nhận trong quy định của Hiến pháp, pháp luật; gia nhập, nội luật hóa và thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người một cách tận tâm, thiện chí. “Tôn trọng” có nghĩa là Nhà nước phải kiềm chế các hành vi cản trở việc thụ hưởng quyền con người, quyền công dân. “Bảo vệ” đòi hỏi Nhà nước phải có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền con người, quyền công dân từ bên thứ ba và từ chính các nhân viên nhà nước. “Bảo đảm” tức là Nhà nước phải tạo những điều kiện thuận lợi nhất để cá nhân có thể thực hiện được quyền con người, quyền công dân của mình.

Hai là, nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân.

Nguyên tắc này được quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 như sau: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Đây là một nội dung quan trọng của Hiến pháp năm 2013 cũng như lịch sử lập hiến Việt Nam khi lần đầu tiên quy định nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân; bảo đảm phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người. Theo đó, để hạn chế quyền con người, quyền công dân cần thỏa mãn đồng thời các điều kiện: (i) Chủ thể duy nhất có quyền hạn chế quyền con người, quyền công dân là Quốc hội và chỉ được thể hiện thông qua hình thức là ban hành luật; (ii) Sự hạn chế quyền con người, quyền công dân phải thực sự cần thiết và tương xứng giữa mục đích và phương tiện trong hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước[3]; (iii) Các lý do của hạn chế quyền con người, quyền công dân là bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.

Ba là, nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

Nguyên tắc này được quy định tại Điều 16 Hiến pháp năm 2013 như sau: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Theo đó, tất cả mọi người không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội đều được đối xử một cách như nhau, công bằng trước pháp luật và trong tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Mọi người đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, bình đằng về trách nhiệm pháp lý, bình đằng giữa Nhà nước và công dân. Đây cũng là một yêu cầu trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là pháp luật giữ vị trí tối thượng, không một cá nhân, tổ chức nào có thể đứng trên pháp luật. Nguyên tắc này đặt ra yêu cầu, Nhà nước phải xây dựng cơ chế phòng ngừa sự phân biệt đối xử giữa các cá nhân và tạo được môi trường bình đẳng về cơ hội một cách toàn diện.

Bốn là, nguyên tắc quyền con người, quyền công dân không tách rời nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội, nghĩa vụ công dân.

Nguyên tắc này được quy định tại Điều 15 Hiến pháp năm 2013 như sau: “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Mọi người đều có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Nguyên tắc này thể hiện tính thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ, trong xã hội dân chủ, không thể có quyền tách rời nghĩa vụ hoặc phải gách vác nghĩa vụ mà không có quyền. Nội dung này phù hợp với quy định của Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948: “Ai cũng có nghĩa vụ đối với cộng đồng mà trong đó nhân cách của mình có thể được phát triển một cách tự do và đầy đủ”, nhằm hướng tới xây dựng một xã hội trong đó lợi ích của cá nhân được đặt hài hòa trong lợi ích của người khác, cộng đồng, xã hội, quốc gia, dân tộc.

2. Thực trạng thực hiện nguyên tắc quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam

2.1. Những kết quả đạt được

Kể từ khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành, Việt Nam luôn thực hiện có hiệu quả các nguyên tắc quyền con người, quyền công dân, không chỉ minh định trong hệ thống pháp luật mà còn triển khai trong thực tiễn.

Hệ thống pháp luật Việt Nam đã ghi nhận đầy đủ các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và các công ước quốc tế về quyền con người như quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, quyền có nơi ở hợp pháp, quyền tự do đi lại và cư trú, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền tự do ngôn luận, quyền việc làm… Đồng thời, Nhà nước cũng thiết lập cơ chế bảo vệ quyền con người, quyền công dân thông qua chế tài xử phạt các hành vi xâm phạm quyền con người, quyền công dân của bên thứ ba với nhiều cấp độ khác nhau như chế tài hành chính, chế tài hình sự; đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức còn phải chịu thêm chế tài kỷ luật. Nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân, Nhà nước cũng ban hành và thực thi nhiều chính sách tạo cơ hội cho các cá nhân hưởng thụ quyền như tập trung vào thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia, nâng cao chất lượng cuộc sống. Tổng nguồn vốn được huy động để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 là 75.000 tỷ đồng (tương đương 03 tỷ USD). Thu nhập bình quân đầu người tăng trưởng tích cực, năm 2023 đạt hơn 100 triệu đồng (tương đương với 4.000 USD), tăng 25% so với năm 2019[4].

Thực hiện nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật, Việt Nam đã bảo đảm tính độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án, quyền của người dân được xét xử công bằng và theo đúng trình tự, phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Các bản án cũng được công khai trên mạng internet, tạo cơ hội bình đẳng cho người dân tiếp cận công lý và góp phần nâng cao nhận thức của người dân trước pháp luật. Hiện nay, Quốc hội cũng đang thảo luận dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), trong đó có nội dung tăng tính độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án.

2.2. Những khó khăn, thách thức

Thứ nhất, nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân được ghi nhận tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 chưa minh định về việc tất cả các quyền đều có thể bị hạn chế hay chỉ có thể hạn chế đối với một số quyền, chưa làm rõ thế nào là “trường hợp cần thiết”, “lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”, trong khi đây là những nội dung quan trọng, cần phải làm rõ nhằm kiểm soát tình trạng tùy tiện thực hiện những hành vi hạn chế quyền con người, quyền công dân từ chính các cơ quan nhà nước.

Thứ hai, Hiến pháp năm 2013 chưa quy định về vấn đề tạm đình chỉ quyền con người, quyền công dân, cũng như các ngoại lệ của việc tạm đình chỉ thực hiện quyền. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc này cũng cho thấy, có cơ quan nhà nước khi ban hành văn bản pháp luật đã hạn chế các quyền con người, quyền công dân đến mức vi phạm, can thiệp vào các quyền con người, quyền công dân[5], chẳng hạn, chính quyền một số địa phương đã ban hành văn bản quản lý hành chính có quy định hạn chế quyền như quy định nghiêm cấm cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên, học sinh trên địa bàn bình luận, thích (like), chia sẻ (share), đăng nội dung các vấn đề liên quan đến chế độ chính sách, chính trị, tôn giáo, làm ảnh hưởng đến uy tín của người khác[6]. Quy định này đã vi phạm quyền tự do ngôn luận theo Hiến pháp năm 2013, bởi lẽ, việc chia sẻ, bình luận thông tin là quyền của mỗi công dân được làm những gì mà pháp luật không cấm và hành vi đó không vi phạm pháp luật.

Thứ ba, một số quyền con người, quyền công dân mặc dù đã được ghi nhận như quyền lập hội, biểu tình… và Hiến pháp năm 2013 xác định việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn chưa có cơ chế cụ thể để cá nhân có thể thực hiện quyền của mình.

3. Giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013

Thứ nhất, tiếp tục thể chế hóa nguyên tắc quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013.

Ban hành các quy định giải thích rõ ràng nội dung các nguyên tắc quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013. Cần làm rõ những quyền được hạn chế, quyền không được hạn chế trong những trường hợp cụ thể, bởi lẽ, theo quan điểm của luật nhân quyền quốc tế, có một số quyền tuyệt đối không thể bị hạn chế trong bất kỳ trường hợp nào như quyền không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo và nhục hình, quyền thừa nhận tư cách thể nhân trước pháp luật. Tiếp tục cụ thể hóa thành các quy định của pháp luật về nguyên nhân hạn chế quyền con người, quyền công dân, cũng như các phương thức hạn chế quyền con người, quyền công dân. Rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật bảo đảm không mâu thuẫn, chồng chéo, không để tồn tại các văn bản dưới luật có quy định làm hạn chế quyền con người, quyền công dân.

Tiếp tục thể chế hóa và thực hiện có hiệu quả các quyền con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 như quyền được sống trong môi trường trong lành; quyền xác định dân tộc; quyền của người chuyển giới tính, người đồng tính, lưỡng tính; quyền của người chấp hành án phạt tù, quyền của bị can, bị cáo. Sớm hoàn thành việc xây dựng và ban hành các văn luật liên quan đến quyền dân sự, chính trị như: Luật về Hội, Luật Biểu tình, Luật Giám sát, Luật Chuyển giới; nghiên cứu ban hành Luật Chống phân biệt đối xử. Tiếp tục hoàn thiện các quy định bảo đảm quyền bình đẳng tiếp cận các dịch vụ công của mọi người, trong đó, chú trọng đối tượng thụ hưởng là các nhóm xã hội dễ bị tổn thương như: Luật Tiền lương tối thiểu, Luật Trợ giúp xã hội, Luật về công tác xã hội, Luật Hiến máu, Luật Dự phòng và hỗ trợ phục hồi cho người sử dụng ma túy, Luật Bảo vệ sức khỏe tâm thần, Luật Dân số, Luật về người có công với nước, Luật Phòng, chống mại dâm, Luật An sinh xã hội[7]…

Thứ hai, nâng cao nhận thức về thực hiện nguyên tắc quyền con người, quyền công dân.

Việc nâng cao nhận thức của các chủ thể, đặc biệt là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước về thực hiện các nguyên tắc quyền con người, quyền công dân có ý nghĩa quan trọng góp phần hạn chế các hành vi lạm quyền, lộng quyền, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Để nâng cao nhận thức cần làm tốt công tác quán triệt, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, pháp luật quốc tế về quyền con người bảo đảm tính kịp thời, thường xuyên, nội dung phù hợp với đối tượng, hình thức, phương pháp đa dạng phong phú. Đặc biệt, nâng cao chất lượng giáo dục quyền con người trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông đa phương tiện trong hoạt động phổ biến, giáo dục quyền con người.

Thứ ba, đổi mới tổ chức, hoạt động của các thiết chế bảo đảm quyền con người và nghiên cứu thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia.

Việt Nam có nhiều thiết chế tham gia vào hoạt động bảo đảm quyền con người như hệ thống các cơ quan nhà nước, Đảng Cộng sản Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan truyền thông báo chí và các tổ chức khác. Vì vậy, cần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng thông qua việc các cấp ủy, tổ chức Đảng thực hiện tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng như Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 05/01/2022 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân dân trong hình hình mới, Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 16/4/2020 của Ban Bí thư về đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xuất bản, phát hành và nghiên cứu, học tập sách lý luận, chính trị… Đồng thời, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các thiết chế nhà nước và phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan truyền thông báo chí trong bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Tiếp tục nghiên cứu thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia là sự bổ sung bảo đảm tốt hơn quyền con người ở Việt Nam, mà không thay thế các thiết chế hiện hành đang thực hiện chức năng, nhiệm vụ này. Có nhiều mô hình cơ quan nhân quyền quốc gia trên thế giới, nhưng có 03 dạng chính đó là: Cơ quan thanh tra Quốc hội, Ủy ban nhân quyền quốc gia, Cơ quan chuyên trách về một vấn đề nhân quyền cụ thể. Việc thành lập Cơ quan nhân quyền quốc gia cần quán triệt các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và các nguyên tắc hiến định về quyền con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Việc lựa chọn mô hình nào cần phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng, tuy nhiên, trong hoàn cảnh cụ thể nước ta, phương án khả thi và phù hợp hơn cả đó là cải tổ, nâng cấp các thiết chế có sẵn trong hệ thống chính trị thành Cơ quan nhân quyền quốc gia.

Thứ tư, thường xuyên thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm nguyên tắc quyền con người, quyền công dân.

Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm có vai trò quan trọng góp phần bảo đảm các nguyên tắc quyền con người, quyền công dân được thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả các cơ chế kiểm tra của Đảng, thanh tra của Nhà nước, giám sát của Nhân dân đối với việc thực hiện nguyên tắc quyền con người, quyền công dân; tránh sự chồng chéo, trùng lặp, bỏ sót các vi phạm. Các nguyên tắc quyền con người, quyền công dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013, vì vậy, các vi phạm nguyên tắc đều là hành vi vi hiến và cần phải được xử lý nghiêm minh, không có ngoại lệ. Tuy nhiên, hiện nay, cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam vẫn chưa thực sự đầy đủ, cụ thể, thiếu tính hệ thống; yêu cầu đặt ra đó là phải hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp cũng là bảo vệ ý chí của Nhân dân, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Hiến pháp năm 2013 là bản Hiến pháp đánh dấu đổi mới tư duy của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với vấn đề quyền con người, quyền công dân khi minh định, công khai các nguyên tắc quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, thực tiễn 10 năm triển khai thi hành đã chỉ ra rằng, cần tiếp tục làm rõ nội hàm các vấn đề hạn chế quyền, cơ chế thực hiện quyền nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành, qua đó, bảo vệ, bảo đảm được quyền và lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức trong xã hội./.

TS. Phạm Thị Ngọc Dung

Học viện Chính trị khu vực I

[1]. Viện Ngôn ngữ học (1996), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, tr. 672.

[2]. Nguyễn Đăng Dung, Trương Đắc Linh, Nguyễn Mạnh Hùng, Lưu Đức Quang, Nguyễn Văn Trí (2011), “Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp - Kinh nghiệm thế giới và Việt Nam”, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, tr. 39 - 47.

[3]. Lưu Đức Quang (2016), “Nguyên tắc Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 74.

[4]. Báo cáo quốc gia về bảo vệ và thúc đảy quyền con người ở Việt Nam theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV.

[5]. Nguyễn Văn Hiển, Trương Hồng Quang (2019), “Nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013”, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 105.

[6]. https://plo.vn/cam-giao-vien-binh-luan-facebook-va-quyen-tu-do-ngon-luan-post364176.html, truy cập ngày 05/5/2024.

[7]. https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2612, truy cập ngày 15/5/2024.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 406), tháng 6/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Quấy rối tình dục tại nơi làm việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe về thể chất, tinh thần và tâm lý của người lao động, khiến cho hiệu quả công việc của họ bị giảm sút và môi trường làm việc trở nên thiếu an toàn. Do vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia đều có quy định để bảo đảm môi trường làm việc lành mạnh cũng như bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Pháp luật Việt Nam cũng đã đặt ra các quy định để ngăn ngừa, hạn chế quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Bài viết tập trung làm rõ những vấn đề pháp lý về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc trên phương diện pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Tóm tắt: Thi hành án dân sự nhanh, hiệu quả góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên có liên quan, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng. Để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động kinh doanh lành mạnh, bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế, bất cập có thể cản trở hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự theo hướng vừa bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thi hành án, vừa tạo điều kiện để doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay.
Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Tóm tắt: Định giá tài sản kê biên có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, để góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, bài viết phân tích các quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự về định giá tài sản kê biên, chỉ ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tóm tắt: Vương quốc Anh là quốc gia theo hệ thống Common Law, có tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự khá khác biệt so với các nước theo truyền thống Civil Law, trong đó đề cao tính xã hội hóa trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong quá trình phát triển, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh có một số cải cách, giúp cho hoạt động này ngày càng hiệu quả, phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ một số cải cách trong hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh, từ đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam là cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Tóm tắt: Thông báo thi hành án là thủ tục không thể thiếu trong từng giai đoạn của quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về thông báo thi hành án còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như chưa tương xứng giữa quyền với nghĩa vụ của đương sự, giữa trách nhiệm với quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và chủ yếu được thực hiện theo hình thức thông báo trực tiếp… Bài viết phân tích pháp luật thực định và thực tiễn thi hành, từ đó, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến thông báo thi hành án để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy quyền được giáo dục của con trong gia đình được thực hiện hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của trẻ em và xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam đối với việc thực hiện điều ước quốc tế, từ đó, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, bảo đảm công tác giám sát thực hiện điều ước quốc tế ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả.
Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tóm tắt: Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đề cao quyền tự quyết của các bên, vì thủ tục này chỉ được tiến hành khi các bên có thỏa thuận trọng tài. Cơ chế tự do thỏa thuận đặt ra vấn đề, liệu các bên có được thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện để đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài hay không? Bài viết phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về khả năng thỏa thuận thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, so sánh với pháp luật của một số quốc gia về vấn đề này; từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.

Theo dõi chúng tôi trên: