Những năm qua, công tác hoàn thiện thể chế, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, bất cập của các quy định pháp luật trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nói chung, công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế nói riêng luôn được Đảng, Quốc hội, Chính phủ đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo.
Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 02/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế (Chỉ thị số 04-CT/TW) đã xác định nhiệm vụ trọng tâm là "rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, nhất là các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt". Thông báo kết luận của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực tại các phiên họp Ban Chỉ đạo[1] đã chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả. Trọng tâm là hoàn thiện thể chế về xử lý vật chứng, tài sản bị tạm giữ, kê biên, phong tỏa trong quá trình trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, vụ việc… khẩn trương xử lý các vướng mắc, khắc phục những sơ hở, bất cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, khắc phục những sơ hở, bất cập, tháo gỡ điểm nghẽn, nút thắt về thể chế, pháp luật, tạo động lực cho đổi mới, sáng tạo, phát triển kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
1. Một số kết quả đạt được
Thực hiện Chỉ thị số 04-CT/TW và các kết luận, chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, thời gian qua, Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành liên quan tập trung rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật còn chồng chéo, bất cập, gây khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành. Về phía Tổng cục Thi hành án dân sự (nay là Cục Quản lý thi hành án dân sự) đã bám sát thực tiễn và yêu cầu của công tác thi hành án dân sự (THADS), tham mưu cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về THADS và những lĩnh vực liên quan. Qua đó, những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong công tác thu hồi tài sản đã được tháo gỡ, góp phần nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản cho Nhà nước bị thất thoát, chiếm đoạt, cụ thể:
- Từ thực tiễn khó khăn, vướng mắc trong xử lý tài sản để thi hành án, Tổng cục Thi hành án dân sự báo cáo Bộ Tư pháp tham mưu Chính phủ trình Quốc hội (tại kỳ họp bất thường lần thứ nhất tháng 01/2022) thông qua Luật số 03/2022/QH15 sửa đổi, bổ sung một số luật, trong đó có Luật Thi hành án dân sự, theo đó, sửa đổi, bổ sung các điều 55, 56, 57 theo hướng bổ sung quy định về ủy thác xử lý tài sản song song với các quy định về ủy thác thi hành án trong Luật Thi hành án dân sự hiện hành[2]. Quy định này đã tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan THADS xử lý đồng thời, nhiều tài sản bị kê biên, phong tỏa hoặc tuyên xử lý để bảo đảm thi hành án trong bản án hình sự về kinh tế, tham nhũng, góp phần đẩy nhanh tiến độ thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt cho Nhà nước.
- Tổng cục Thi hành án dân sự đã tham mưu Bộ Tư pháp trình Chính phủ ban hành Nghị định số 152/2024/NĐ-CP ngày 15/11/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ (Nghị định số 152/2024/NĐ-CP), trong đó, đã bổ sung quy định trường hợp người được thông báo đồng ý thì từ lần thông báo thứ hai trở đi, cơ quan THADS có thể thực hiện thông báo qua VNeID hoặc Trang thông tin điện tử của Cục Thi hành án dân sự (nay là Thi hành án dân sự tỉnh/thành phố) và Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thi hành án dân sự[3], tạo cơ sở pháp lý để tháo gỡ một phần khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành các vụ "đại án" hình sự về tham nhũng, kinh tế có số lượng đương sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan lên đến hàng nghìn đương sự, địa chỉ ở khắp các địa phương trên toàn quốc trong khi việc thực hiện thông báo thi hành án theo quy định hiện hành tại các điều 39, 40, 41, 42 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022, 2024 (Luật Thi hành án dân sự) đang còn vướng mắc.
- Ngày 28/11/2024, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 164/2024/QH15 về thí điểm xử lý vật chứng, tài sản trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử một số vụ việc, vụ án hình sự (Nghị quyết số 164/2024/QH15) cho phép áp dụng biện pháp xử lý vật chứng, tài sản ngay từ giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm với vụ án hình sự thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; theo dõi, chỉ đạo nhằm kịp thời xử lý hiệu quả vật chứng, tài sản trong vụ án, vụ việc; sớm khắc phục hậu quả thiệt hại, đưa tài sản vào khai thác, sử dụng, nhằm khơi thông nguồn lực phát triển, tránh thất thoát, lãng phí; bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Khoản 5 Điều 3 Nghị quyết số 164/2024/QH15 quy định: "Khi có căn cứ cho rằng cần phải ngăn chặn việc người bị buộc tội hoặc tổ chức, cá nhân khác có hành vi chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng, tẩu tán, hủy hoại tài sản liên quan đến vụ việc, vụ án thì cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp tạm ngừng giao dịch, tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản đó". Quy định trên đã góp phần tháo gỡ khó khăn trong áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về kê biên, theo đó, việc kê biên tài sản chỉ áp dụng với bị can, bị cáo và phong tỏa tài sản chỉ áp dụng với người bị buộc tội, tài sản tịch thu phải liên quan trực tiếp đến tội phạm, trong đó, chỉ kê biên và phong tỏa số tiền trong tài khoản phải tương ứng với mức có thể bị phạt tiền, bị tịch thu hoặc phải bồi thường thiệt hại[4]…, tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan tiến hành tố tụng kịp thời ngăn chặn việc che giấu, tẩu tán tài sản trong các vụ án hình sự về kinh tế, tham nhũng, bảo đảm thu hồi tiền, tài sản tham nhũng sau xét xử.
- Ngày 30/11/2024, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 170/2024/QH15 về cơ chế, chính sách đặc thù để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các dự án, đất đai trong kết luận thanh tra, kiểm tra, bản án tại Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng và tỉnh Khánh Hòa, trong đó có quy định một số cơ chế để thi hành một số bản án hình sự về tham nhũng, kinh tế.
Với việc thể chế liên quan đến công tác thu hồi tài sản được quan tâm, kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc có cơ chế tháo gỡ những bất cập, khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn đã góp phần rất quan trọng giúp công tác thu hồi tài sản tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực, rõ nét. Kết quả thu hồi tài sản ở giai đoạn THADS có chiều hướng tăng lên, năm sau cao hơn năm trước, trong đó năm 2024 kết quả thu hồi đạt mức cao nhất từ trước đến nay với số tiền thu hồi được trên 22.000 tỷ đồng, 06 tháng đầu năm 2025, các cơ quan THADS đã tiếp tục thu hồi được trên 9.781 tỷ đồng.
2. Một số khó khăn, vướng mắc
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thu hồi tài sản vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc chưa được tháo gỡ, giải quyết dứt điểm, cùng với đó, thời gian gần đây, phát sinh một số vụ "đại án" như: Vạn Thịnh Phát, FLC, Tân Hoàng Minh,... có số lượng tài sản, giá trị phải tổ chức thi hành và số lượng người bị hại đặc biệt lớn, tính chất pháp lý của tài sản trong vụ việc rất phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực, nhiều vấn đề pháp luật về THADS và pháp luật khác có liên quan mà chưa thể dự liệu nên việc áp dụng các quy định hiện hành không có tính khả thi, tốn kém kinh phí và kéo dài quá trình tổ chức thi hành. Cụ thể:
2.1. Đối với pháp luật tố tụng hình sự
Pháp luật tố tụng hình sự chưa xác định rõ trách nhiệm của từng chủ thể trong việc truy nguyên, truy tìm, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản ngay từ giai đoạn giải quyết tin báo tố giác tội phạm đến điều tra, truy tố, xét xử. Vẫn còn nhiều trường hợp cơ quan có thẩm quyền tố tụng chưa làm rõ tình trạng pháp lý của các tài sản được bản án tuyên kê biên bảo đảm thi hành án, dẫn đến giai đoạn THADS thì cơ quan THADS phải mất nhiều thời gian tác nghiệp, xác minh làm rõ để có đủ căn cứ xử lý theo quy định pháp luật; nhiều tài sản là quyền sử dụng đất bị kê biên có diện tích thực tế chênh lệch với diện tích ghi trên giấy chứng nhận hoặc với biên bản, lệnh kê biên của cơ quan điều tra; cá biệt, có khu đất chênh lệch hàng nghìn mét vuông so với biên bản kê biên; không có mốc giới cụ thể gây khó khăn cho công tác đo đạc, xử lý tài sản trong giai đoạn thi hành án.
2.2. Đối với pháp luật thi hành án dân sự
- Về vấn đề thỏa thuận thi hành án: hiện, Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có quy định cơ quan nào đại diện cho Nhà nước với tư cách là bên được thi hành án. Do vậy, khi Nhà nước là bên được thi hành án thì trường hợp Luật Thi hành án dân sự quy định quyền thỏa thuận của đương sự trong quá trình tổ chức THADS nói chung, thi hành các khoản phải thu hồi tài sản cho Nhà nước sẽ không đáp ứng điều kiện có bên được thi hành án và bên phải thi hành án để thực hiện quyền thỏa thuận trong THADS như: thỏa thuận về giá khởi điểm, về tổ chức thẩm định giá, bán đấu giá tài sản…
- Về việc thỏa thuận phân chia tài sản chung đối với tài sản chưa xác định được phần sở hữu, sử dụng trong khối tài sản: khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự còn vướng mắc, bất cập, do tài sản của người phải thi hành án trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế có thể là tài sản do phạm tội mà có, việc các bên tự thỏa thuận phân chia tài sản hoặc phân chia tài sản theo pháp luật về hôn nhân, gia đình chứa đựng nguy cơ tẩu tán tài sản, trong khi đó, bản thân cơ quan THADS, Chấp hành viên không có thẩm quyền chứng minh tài sản do đâu mà có, cũng như thẩm quyền xác định chủ sở hữu tài sản. Hơn nữa, đối với các tài sản này cần làm rõ nguồn gốc, đóng góp của mỗi người trong khối tài sản chung, tránh ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của Nhà nước, nhất là đối với những tài sản được hình thành trong giai đoạn phạm tội của người phạm tội.
Do đó, khi có yêu cầu hoặc tranh chấp về tài sản chung trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, cơ quan THADS gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực hiện quy định về thỏa thuận; trường hợp hướng dẫn các bên khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia tài sản, theo quy định khi các bên không khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia tài sản thì Chấp hành viên đề nghị Tòa án phân chia tài sản để làm căn cứ tổ chức thi hành vụ việc. Tuy nhiên, thực tiễn phát sinh một số vụ việc, tài sản bản án tuyên kê biên để bảo đảm thi hành án là tài sản chung của người phải thi hành án với vợ/chồng hoặc tổ chức, cá nhân khác, song, quan điểm xử lý đối với loại tài sản này của Tòa án các cấp chưa thống nhất. Ví dụ: có vụ việc Tòa án xét xử đã giải thích việc kê biên chỉ để bảo đảm thi hành án, còn việc xác định phần sở hữu trong khối tài sản đã kê biên phải được thực hiện theo quy định của pháp luật, nhưng Tòa án có thẩm quyền không thụ lý đối với tranh chấp, yêu cầu phân chia tài sản do xác định tài sản là vật chứng đã được xem xét tại bản án hình sự (việc xử lý 20/28 tài sản trong vụ án Phan Văn Anh Vũ – Vũ "nhôm"). Một số nơi, Tòa án đã thụ lý giải quyết tranh chấp đối với tài sản chung, nhưng việc xử lý kéo dài làm ảnh hưởng tiến độ xử lý tài sản (vụ án Dương Thanh Cường, vụ Huỳnh Thị Huyền Như…).
- Về việc thi hành nghĩa vụ liên đới, khoản 1 Điều 288 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: "Nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ", tại Điều 11 Thông tư liên tịch số 11/2016/ TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định một số vấn đề về thủ tục THADS và phối hợp liên ngành trong THADS quy định: (i) trường hợp bản án, quyết định của Tòa án tuyên nghĩa vụ liên đới nhưng không xác định hoặc xác định rõ phần nghĩa vụ của từng người, thì trong quá trình tổ chức thi hành án, cơ quan THADS có quyền yêu cầu một hoặc một số người bất kỳ có điều kiện thi hành án trong số những người phải thi hành án thực hiện toàn bộ nghĩa vụ liên đới; (ii) người đã thực hiện thay phần nghĩa vụ thi hành án có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ liên đới khác thanh toán lại phần nghĩa vụ mà người đó đã thực hiện thay cho họ theo quy định của pháp luật dân sự". Tuy nhiên, thực tế trong nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế, khi Tòa án tuyên các bị cáo phải liên đới thi hành nghĩa vụ, một số người phải thi hành án có nghĩa vụ liên đới theo phần chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong khối nghĩa vụ liên đới. Do đó, người phải thi hành án chỉ chấp nhận thi hành phần nghĩa vụ của mình, không đồng ý thi hành phần nghĩa vụ thay cho người khác, nếu cơ quan THADS cưỡng chế, kê biên, xử lý tài sản của họ để thi hành nghĩa vụ thay cho người khác thì dễ phát sinh khiếu nại, tố cáo, chống đối quyết liệt từ phía người phải thi hành án.
- Về thủ tục thông báo thi hành án: theo quy định của Luật Thi hành án dân sự (các điều 39, 40, 41, 42, 43), cơ quan THADS phải thông báo bằng hình thức trực tiếp tất cả các quyết định, văn bản có liên quan đến việc thi hành án cho đương sự; trường hợp không thực hiện được thông báo trực tiếp sẽ phải thực hiện bằng hình thức niêm yết công khai; việc thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng chỉ được thực hiện khi pháp luật có quy định hoặc khi đương sự có yêu cầu. Đối với những vụ việc có số lượng đương sự lớn lên đến hàng nghìn, hàng chục nghìn đương sự (như vụ án Vạn Thịnh Phát, Tân Hoàng Minh, Lê Xuân Giang, FLC,...) và hàng nghìn tài sản phải xử lý, cơ quan THADS không thể thực hiện thông báo thi hành án trong thời hạn Luật định (03 ngày làm việc kể từ khi phát hành văn bản) và gây tốn kém chi phí lớn, kéo dài quá trình tổ chức thi hành án, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
- Về thanh toán tiền thi hành án: khoản 5 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự quy định trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày thu được tiền, cơ quan THADS phải thực hiện việc thanh toán tiền thi hành án. Tuy nhiên, đối với các vụ việc có số lượng tài sản phải xử lý và số lượng người bị hại đặc biệt lớn, nếu thực hiện theo quy định hiện hành, sẽ phải thực hiện nhiều đợt thanh toán (hàng nghìn hoặc hàng chục nghìn đợt thanh toán), mỗi đợt thanh toán tiền thi hành án thì cơ quan THADS sẽ phải làm thủ tục thanh toán cho rất nhiều người được thi hành án qua Kho bạc Nhà nước, Kho bạc Nhà nước cũng phải mất nhiều thời gian để duyệt chi hết một lượt cho số lượng rất lớn các bị hại. Quy trình này làm kéo dài quá trình tổ chức thi hành, không thể bảo đảm toàn bộ người được thi hành án được nhận tiền đồng loạt trong mỗi lần thanh toán, dễ phát sinh khiếu nại trong quá trình tổ chức thi hành án.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về công tác thu hồi tài sản
Để khắc phục những khó khăn, vướng mắc, bất cập, nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản cho Nhà nước trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, nghiên cứu đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về công tác thu hồi tài sản như sau:
Một là, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự theo hướng quy định rõ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác minh, truy tìm, áp dụng các biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản cần xác minh làm rõ hiện trạng, tình trạng pháp lý của tài sản của bị can, bị cáo, các đối tượng liên quan ngay từ giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ việc, vụ án hình sự để bảo đảm cơ sở kịp thời xử lý tài sản, thu hồi khoản bị thất thoát, chiếm đoạt cho Nhà nước ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Quy định cơ quan THADS có thẩm quyền được tham gia trong quá trình cơ quan tiến hành tố tụng kê biên tài sản, theo dõi quá trình giải quyết vụ việc hoặc cơ quan tiến hành tố tụng cần phối hợp, cung cấp thông tin với cơ quan THADS trong quá trình kê biên để bảo đảm thuận lợi trong thực hiện bàn giao, tiếp nhận vật chứng theo quy định, cũng như kịp thời xử lý tài sản sau khi có bản án, quyết định của Tòa án được thuận lợi, nhanh chóng và hiệu quả.
Tòa án có thẩm quyền xét xử cần quyết định rõ quyền sở hữu, quyền sử dụng các tài sản đã áp dụng biện pháp bảo đảm từ khi khởi tố vụ án, đồng thời, xác định rõ nghĩa vụ thi hành án của từng bị cáo để bảo đảm hiệu quả xử lý tài sản trong quá trình thi hành án, tránh phát sinh tranh chấp và khiếu nại, tố cáo của đương sự.
Hai là, đối với các quy định pháp luật thi hành án dân sự.
(i) Sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự về những quy định đặc thù trong xử lý tài sản, tổ chức thi hành án để thu hồi cho Nhà nước trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế theo hướng cắt giảm một số thủ tục thi hành án như thủ tục thỏa thuận về giá, tổ chức thẩm định giá, thỏa thuận phân chia tài sản chung khi xử lý tài sản để thi hành án; bổ sung cơ chế đại diện chủ sở hữu Nhà nước (Sở Tài chính) trong THADS, nhất là trong thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các bản án hình sự về tham nhũng, kinh tế, quy định về việc cơ quan đại diện chủ sở hữu Nhà nước nhận tài sản từ sau lần giảm giá thứ hai mà không có người tham gia đấu giá, bán đấu giá không thành để trừ vào số tiền được thi hành án… qua đó, rút ngắn thời gian tổ chức thi hành án, thu hồi kịp thời, tối đa tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt, góp phần phòng ngừa tiêu cực, giảm thiểu chi phí, tránh lãng phí nguồn lực.
(ii) Sửa đổi, bổ sung quy định của Luật Thi hành án dân sự về thông báo thi hành án theo hướng bỏ thủ tục Chấp hành viên thông báo cho người phải thi hành án, người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất thỏa thuận phân chia tài sản chung để thi hành án (khoản 1 Điều 74), quy định rõ tài sản bị kê biên bảo đảm thi hành án trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế nếu có tranh chấp thì các bên đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khởi kiện ra Tòa án để giải quyết.
(iii) Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định của Luật Thi hành án dân sự về thông báo thi hành án được thực hiện qua tài khoản định danh điện tử trên ứng dụng VneID hoặc cho phép người được thông báo đăng ký nhận thông báo qua phương tiện điện tử như: email, ứng dụng mạng xã hội zalo, viber,... Trường hợp không thực hiện được việc thông báo qua VneID, phương tiện điện tử hoặc trường hợp khác theo quy định của Chính phủ thì việc thông báo được thực hiện thông báo trực tiếp qua cơ quan, tổ chức, cá nhân; niêm yết công khai hoặc thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
(iv) Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định cho phép cơ quan THADS mở tài khoản tại tổ chức tín dụng để thực hiện việc thu, nộp và thanh toán tiền thi hành án trên cơ sở kiểm soát, phê duyệt của Kho bạc Nhà nước có thẩm quyền. Nghiên cứu triển khai xây dựng phần mềm thanh toán tiền thi hành án riêng cho các vụ việc có số lượng đương sự lớn, bảo đảm việc thanh toán tiền được thực hiện kịp thời, đồng loạt, công khai, minh bạch, tránh phát sinh khiếu nại đông người, phức tạp.
(v) Quy định đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong THADS, quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền liên quan trong việc xây dựng các cơ sở dữ liệu điện tử chuyên ngành, quy định về bảo đảm tính liên thông, kết nối giữa các cơ sở dữ liệu điện tử quốc gia về dân cư, tài sản, đất đai, công chứng, THADS,... tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ xử lý tài sản, bảo đảm công khai, minh bạch, rút ngắn thời gian tổ chức thi hành, bảo đảm hiệu quả công tác thu hồi tài sản được kịp thời, tối đa, đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp và yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Bùi Ngọc Hiếu
Phó Trưởng Thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng
Thông báo số 53-TB/BCĐTW ngày 26/8/2024 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực về kết luận của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tại phiên hợp thứ 26 của Ban Chỉ đạo (Thông báo số 53-TB/BCĐTW); Thông báo số 56-TB/BCĐTW ngày15/01/2025 củaBan Chỉ đạoTrung ương vềkết luậncủađồng chí Tổng Bíthư Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực tại phiên họp thứ 27 của Ban Chỉ đạo (Thông báo số 56-TB/BCĐTW).
Khoản 2 Điều 55 Luật Thi hành án dân sự quy định rõ: "Cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản trên địa bàn, đồng thời có thể ủy thác xử lý tài sản cho cơ quan thi hành án dân sự nơi có tài sản được bản án, quyết định tuyên kê biên, phong tỏa hoặc xử lý tài sản để bảo đảm thi hành án mà tài sản ở nhiều địa phương khác nhau".
Khoản 4 Điều 1 Nghị định số 152/NĐ-CP.
Điều 45, Điều 128 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
(Nguồn: Ấn phẩm 200 trang "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong giai đoạn mới" xuất bản tháng 7/2025).