
Tạp chí trân trọng báo cáo kết quả tổ chức Hội thảo cụ thể như sau:
A. THÔNG TIN VỀ HỘI THẢO
1. Thời gian tổ chức: Ngày 04/7/2025.
2. Hình thức tổ chức: Hội thảo được tổ chức theo hình thức trực tiếp tại trụ sở Cục Quản lý thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp và kết nối trực tuyến với 135 điểm cầu.
3. Chủ trì: TS. Trương Thế Côn - Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.
4. Số lượng tham dự: Hơn 200 đại biểu tham dự Hội thảo: Gồm hơn 40 đại biểu dự trực tiếp và hơn 160 đại biểu/nhóm đại biểu dự trực tuyến tại 135 điểm cầu trên toàn quốc.
5. Thành phần tham dự gồm: Một số đại biểu Quốc hội; đại diện các cơ quan Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Văn phòng Quốc hội; các thành viên Hội đồng cố vấn, Hội đồng tư vấn biên tập của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật; đại diện một số đơn vị thuộc Bộ Tư pháp; đại diện các cơ quan thi hành án dân sự, Ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương, Sở Tư pháp, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các tổ chức hành nghề Thừa phát lại, công chứng, luật sư, đấu giá, các chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn... tham gia trực tiếp và trực tuyến.
B. KẾT QUẢ HỘI THẢO
Ban Tổ chức đã nhận được gần 60 văn bản góp ý, bài viết tham luận vào dự thảo Luật của các cơ quan, tổ chức; các chuyên gia, nhà khoa học, cá nhân có chức năng, nhiệm vụ liên quan đến hoạt động thi hành án dân sự. Tại Hội thảo đã ghi nhận 19 ý kiến phát biểu trực tiếp và trực tuyến[1].
Đa số ý kiến đều thống nhất, đánh giá cao việc xây dựng và nội dung của dự thảo Luật. Dự thảo Luật đã thể chế hóa các chủ trương của Đảng, đặc biệt, yêu cầu đổi mới quy trình xây dựng pháp luật, mô hình tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự; cải tiến quy trình, thủ tục hành chính; nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật; đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi, giảm chi phí tuân thủ pháp luật cho người dân, doanh nghiệp và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân. Đây là bước cụ thể hóa quan trọng nhằm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, cũng như Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.
Sau phần trình bày tổng quan về những điểm mới trong dự thảo Luật, các đại biểu đã tập trung đóng góp ý kiến nhằm tiếp tục hoàn thiện dự thảo, bảo đảm phù hợp với thực tiễn và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Trên cơ sở nghiên cứu các bài tham luận, văn bản góp ý và ý kiến phát biểu tại Hội thảo, Tạp chí hệ thống, phân nhóm ý kiến đóng góp như sau[2]:
I. Chương I: Quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 21)
Về giải thích từ ngữ (Điều 3)
- Có ý kiến đề nghị bổ sung thuật ngữ “tài sản thi hành án”, vì đây là khái niệm có liên quan trực tiếp đến quyền hạn và trách nhiệm của người tổ chức thi hành án trong quá trình tổ chức thi hành án.
- Có ý kiến đề xuất việc giải thích thuật ngữ “người được thi hành án” và “người phải thi hành án” tại khoản 2, khoản 3 thuộc nội dung khoản 1 vì đều được xác định là “đương sự” đã được giải thích tại khoản 1.
Về quyền và nghĩa vụ của người được thi hành án (Điều 5)
- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định: “Người được thi hành án có quyền được cung cấp thông tin về tình trạng xử lý tài sản và tiến độ thi hành án”, nhằm bảo đảm quyền theo dõi quá trình thi hành án, kiểm tra tính chính xác, hợp pháp các hành vi của Chấp hành viên và thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại khi cần thiết.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định: “Người được thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án hoặc cơ quan nhà nước có liên quan hỗ trợ trong việc thu thập thông tin, tài liệu về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án trong quá trình cung cấp các thông tin, tài liệu này cho cơ quan thi hành án dân sự” tại điểm d khoản 1. Việc bổ sung quy định này nhằm bảo đảm thống nhất với quy định tại khoản 6 Điều 27 của dự thảo Luật, đồng thời góp phần bảo đảm việc cung cấp thông tin được thực hiện chính xác, kịp thời và đúng thời hạn.
Về quyền và nghĩa vụ của người phải thi hành án (Điều 6)
- Có ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung tại điểm b khoản 2 theo hướng quy định đầy đủ thông tin, bao gồm cả địa chỉ trụ sở trong trường hợp người phải thi hành án là tổ chức, nhằm bảo đảm tính chính xác, cụ thể của thông tin trong hồ sơ thi hành án.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “quyền được ủy quyền” của người phải thi hành án trong thi hành án dân sự vào Điều 6 để hoàn thiện, quy định bao quát toàn diện về quyền và nghĩa vụ của người phải thi hành án, vì Điều 6 mới chỉ quy định việc ủy quyền. Trong khi đó, căn cứ từ yêu cầu thực tiễn và quy định pháp luật cho thấy, bên cạnh nghĩa vụ, người phải thi hành án cũng có rất nhiều quyền, trong đó có quyền ủy quyền cho người khác thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm quy định nhằm tăng cường quyền và nghĩa vụ của đương sự, cũng như người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, để bảo đảm thực hiện nghiêm nguyên tắc bản án, quyết định của Tòa án phải được chấp hành. Cụ thể, cần quy định bổ sung các nghĩa vụ và chuyển giao một số quyền theo quy định của pháp luật hiện hành thành nghĩa vụ của đương sự, như nghĩa vụ của đương sự phải nhận các văn bản thông báo của cơ quan thi hành án dân sự, các nghĩa vụ liên quan đến thực hiện nghiêm chỉnh các bản án, chi phí, lệ phí, bồi thường thiệt hại…; quyền, nghĩa vụ về khiếu nại, tố cáo. Dự thảo Luật cần xác định thi hành án dân sự là thủ tục tư pháp nên phải bảo đảm nhanh, gọn và nghiêm chỉnh chấp hành. Về bảo đảm hoạt động thi hành án dân sự (Điều 8)
Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “người thân của người thi hành công vụ” vào khoản 3 Điều 8, nhằm bảo đảm phù hợp với Quy định số 183-QĐ/TW ngày 18/9/2024 của Bộ Chính trị về bảo vệ cơ quan, người thi hành công vụ trong hoạt động thi hành án dân sự. Hiện, khoản 3 Điều 8 mới chỉ đề cập đến các chủ thể được bảo vệ là cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án và người thi hành công vụ, chưa bao quát nhóm chủ thể là người thân của họ, trong khi đây là nội dung đã được nêu rõ trong Quy định của Bộ Chính trị.
Về hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án (Điều 9)
- Nhiều ý kiến góp ý đề nghị cần quy định hệ thống cơ quan thi hành án dân sự theo mô hình hai cấp: Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cơ quan thi hành án dân sự khu vực. Hiện, Điều 9 của dự thảo Luật quy định theo hướng chỉ tổ chức một cấp là cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, không tổ chức cơ quan thi hành án dân sự khu vực là chưa thực sự hợp lý, vì các lý do sau:
+ Việc không quy định tổ chức cơ quan thi hành án dân sự khu vực là chưa bảo đảm nguyên tắc tương thích, liên thông với hệ thống tổ chức của các cơ quan tố tụng khác. Cụ thể, theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2025, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Viện kiểm sát nhân dân khu vực. Do đó, để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa các cơ quan trong hệ thống tư pháp, cần xem xét bổ sung cơ quan thi hành án dân sự khu vực trong dự thảo Luật.
+ Việc quy định hệ thống cơ quan thi hành án dân sự chỉ gồm một cấp (cấp tỉnh) sẽ khó bảo đảm nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; đồng thời, không tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tiếp cận, liên hệ và giải quyết các vụ việc thi hành án dân sự.
+ Bất cập về thẩm quyền tổ chức thi hành án khi cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh ra quyết định thi hành án của Tòa án nhân dân cấp khu vực và bất cập về thẩm quyền kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp khu vực; bất cập trong công tác phối hợp, nhận chuyển giao vật chứng... Trong khi đó, dự thảo Luật không quy định về chức năng của phòng thi hành án dân sự khu vực; khi bổ sung phòng thi hành án dân sự khu vực vào Điều 9 thì cần quy định rõ trường hợp người dân yêu cầu thi hành án sẽ liên hệ với cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh hay phòng thi hành án dân sự khu vực.
- Có ý kiến đề nghị xây dựng mô hình tổ chức cơ quan thi hành án dân sự tương thích với hệ thống Tòa án, Viện kiểm sát để bảo đảm tính đồng bộ, thuận lợi trong phối hợp, thực hiện nhiệm vụ, chuyển giao vật chứng... Trường hợp không thực hiện được mô hình này, cần có giải pháp phù hợp trong tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo và tăng cường phối hợp liên ngành, nhất là nhiều người dân còn hạn chế trong tiếp cận công nghệ thông tin.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về Văn phòng thi hành án dân sự và Thừa hành viên trong hệ thống cơ quan thi hành án dân sự để quy định tổng thể, đầy đủ, toàn diện. Điều này cũng phù hợp với Chương III dự thảo Luật khi đề cập đến hoạt động của Văn phòng thi hành án dân sự và Thừa hành viên[3].
Nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên (Điều 13)
- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định: Chấp hành viên có quyền không chấp nhận việc ủy quyền trong thi hành án dân sự nếu có căn cứ cho rằng việc ủy quyền đó gây cản trở, làm phức tạp hoặc ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình thi hành án. Quy định này nhằm bảo đảm tính minh bạch, kỷ luật thi hành án và tránh việc lạm dụng ủy quyền để trì hoãn, né tránh nghĩa vụ thi hành án.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung vào Điều 13 nội dung liên quan đến hoạt động xác minh trực tiếp đối với tài sản, tương tự như quy định tại phần đầu khoản 4 Điều 20 Luật Thi hành án dân sự hiện hành: “Xác minh tài sản, điều kiện của người phải thi hành án;...”. Việc cụ thể hóa nội dung này trong quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên sẽ tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, giúp Chấp hành viên thuận lợi hơn trong quá trình tổ chức thi hành án, đặc biệt, trong các trường hợp cần chủ động xác minh thực tế về tài sản, thu nhập và điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.
Nhiệm vụ, quyền hạn của thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự (Điều 15)
- Có ý kiến đề nghị, đối với điểm d khoản 2 Điều 15[4], cần xem xét lại cơ chế cho phép cơ quan thi hành án báo cáo Tòa án cấp trên liên quan đến việc giải thích, sửa chữa, bổ sung bản án của Tòa án cấp dưới, trên cơ sở việc tuân theo quy định pháp luật tố tụng, đặc biệt là nguyên tắc xét xử độc lập. Vì: (i) điểm d khoản 2 Điều 15 quy định cho phép thủ trưởng cơ quan thi hành án nếu không đồng ý với văn bản giải thích, sửa chữa, bổ sung bản án của Tòa án đã ban hành có quyền báo cáo Tòa án cấp trên xem xét giải quyết, Tòa án cấp trên chỉ đạo Tòa án đã ra bản án nghiên cứu và trả lời. Đây là quy định mới nhưng lại mâu thuẫn với quy định của luật tố tụng và ảnh hưởng đến tiền lệ, nguyên tắc xét xử độc lập của thẩm phán, hội đồng xét xử; (ii) quyết định của bản án là sản phẩm trí tuệ và quyền tài phán của hội đồng xét xử được tuyên, không cơ quan nào được quyền chỉ đạo, giải thích theo hướng khác trừ khi bản án đó bị hủy hoặc sửa theo đúng trình tự, thủ tục luật định; (iii) quy định này sẽ kéo dài thời gian thi hành án, đồng thời can thiệp vào việc xét xử của Tòa án.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung hình thức chữ ký số (tương tự hệ thống thuế) khi ban hành quyết định thi hành án của thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự; chữ ký số chỉ áp dụng cho hệ thống cơ quan thi hành án dân sự của Nhà nước. Đối với Văn phòng thi hành án dân sự được phép ban hành quyết định thi hành án theo yêu cầu thì áp dụng chữ ký trực tiếp để bảo đảm tính kịp thời, nhanh chóng đưa bản án ra thi hành trong bối cảnh thực hiện việc sắp xếp tổ chức bộ máy hiện nay.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân trong thi hành án dân sự (Điều 17)
Có ý kiến đề nghị quy định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm của Tòa án trong việc giao bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh hay phòng thi hành án khu vực. Vì, Điều 17 dự thảo Luật quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân trong thi hành án dân sự, trong đó có nhiệm vụ chuyển giao bản án, quyết định của Tòa án cho cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Điều luật này không quy định rõ chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án dân sự nào.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân sự (Điều 18)
- Có ý kiến đề nghị cần quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân sự như quy định tại Điều 28 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 được sửa đổi, bổ sung năm 2025. Ví dụ, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức thi hành án cung cấp tài liệu hoặc tự kiểm tra việc thi hành án và thông báo kết quả kiểm tra cho Viện kiểm sát nhân dân, thì trong dự thảo Luật cần quy định rõ thời hạn cơ quan thi hành án dân sự phải trả lời cho Viện kiểm sát (chẳng hạn, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu).
- Có ý kiến đề nghị bổ sung, tăng cường vai trò của Viện kiểm sát nhân dân để bảo đảm việc thực thi chức năng, nhiệm vụ của kiểm sát viên trong thi hành án dân sự và bảo vệ quyền lợi của các đương sự.
- Có ý kiến đề nghị cần quy định rõ giới hạn và phạm vi thực hiện chức năng kiểm sát việc thi hành án dân sự của Viện kiểm sát nhân dân các cấp, bảo đảm phân định rõ, cụ thể thẩm quyền kiểm sát theo từng cấp tương ứng với cơ quan thi hành án dân sự. Cụ thể, cần làm rõ Viện kiểm sát nhân dân khu vực có quyền kiểm sát đối với cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh hay không; đồng thời, xác định rõ Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh kiểm sát cơ quan thi hành án nào, tránh chồng chéo hoặc vượt quá phạm vi thẩm quyền theo cấp xét xử.
- Có ý kiến đề nghị cần quy định rõ Viện kiểm sát nào kiểm sát việc thi hành án của Văn phòng thi hành án dân sự để bảo đảm việc thi hành quy định tại Điều 86 về quyền, nhiệm vụ của Văn phòng thi hành án dân sự.
II. Chương II: Thủ tục thi hành án dân sự (từ Điều 22 đến Điều 82)
Các đại biểu có ý kiến đề nghị dự thảo Luật quy định thủ tục thi hành án dân sự phải bảo đảm chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi, kiến tạo, linh hoạt trong áp dụng và thực hiện pháp luật, hướng đến lấy kết quả thi hành án là thước đo hiệu quả, hiệu lực, hiệu năng của công tác thi hành án dân sự. Do đó, cần ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong hoạt động thi hành án như sử dụng các tài khoản, tài sản, ứng dụng VNeID…
Yêu cầu và ra quyết định thi hành án theo yêu cầu (Điều 24)
- Nhiều ý kiến đề nghị rút ngắn thời hiệu yêu cầu thi hành án (hiện là 05 năm) để tạo thuận lợi cho cơ quan thi hành án. Thời hạn dài dẫn đến bất cập như: tài sản thay đổi, nghĩa vụ không còn phù hợp, phải chuyển giao quyền/nghĩa vụ, khó xử lý giấy tờ, tài sản hoặc nghĩa vụ thực hiện công việc nhất định; ảnh hưởng đến việc kiến nghị, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm khi phát hiện vi phạm.
- Có ý kiến đề nghị cần quy định rõ thời hiệu yêu cầu thi hành án và chỉ xác định thời hiệu với cơ quan thi hành án thuộc Nhà nước; đối với Văn phòng thi hành án dân sự không áp dụng để tạo điều kiện tổ chức thi hành các vụ việc khi đã hết thời hiệu nếu yêu cầu cơ quan thi hành án thuộc Nhà nước thực hiện; đồng thời, bảo đảm quyền lợi của người được thi hành án.
Thông báo, gửi văn bản về thi hành án (Điều 25)
- Có ý kiến đề nghị dự thảo Luật quy định mang tính chất khung, nhưng trong văn bản hướng dẫn thi hành Luật cần đưa ra các điều kiện cụ thể đối với từng trường hợp lựa chọn phương án thông báo để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Vì, trong dự thảo Luật đã có các phương án cụ thể hơn về việc thông báo thi hành án để giảm nhẹ gánh nặng của cơ quan thi hành án dân sự, trong đó có phương thức thông báo trực tiếp bằng phương tiện điện tử. Tuy nhiên, khi nào được quyền thực hiện thông báo thông qua các phương tiện điện tử? Ví dụ, đối với những trường hợp VNeID chưa được phổ cập hóa ở cấp độ 02 hoặc không có điện thoại thông minh thì họ không thể biết có được nhận văn bản hay không, trong khi nhận văn bản là một trong những quyền cơ bản của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ có tính chất tư pháp.
- Có ý kiến đề nghị nên nghiên cứu xác định tên gọi và khái quát hóa các văn bản để phù hợp với các chủ thể có thẩm quyền tiếp nhận, xử lý văn bản.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung cụm từ “trực tiếp” vào sau cụm từ “thi hành án có liên quan” tại khoản 1 và “cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan” tại khoản 2 để tránh trường hợp quy định chung chung, dẫn đến việc hiểu rằng cá nhân/tổ chức là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được xác định trong bản án, quyết định được đưa ra thi hành thì đương nhiên được thông báo.
Tự nguyện và thỏa thuận thi hành án (Điều 26)
- Có ý kiến đề nghị nên rà soát để bỏ bớt cụm từ “thi hành án” tại khoản 2 để tránh trùng lặp.
- Có ý kiến đề nghị cần quy định bổ sung nội dung đối với trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc hành vi khác nhằm trốn tránh việc thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên ngoài việc có quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Luật Thi hành án dân sự thì cần thông báo ngay thông tin định danh cá nhân của người phải thi hành án chưa hoàn thành nghĩa vụ thi hành án dân sự đến các ngân hàng, cơ quan đăng ký giao dịch tài sản, công ty chứng khoán... để thực hiện việc phong tỏa mọi tài khoản, tài sản liên quan đến người phải thi hành án. Vì, việc cung cấp chính xác thông tin định danh cá nhân của người phải thi hành án sẽ giúp áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế được đúng người, đúng thời điểm và nhanh chóng.
- Có ý kiến đề nghị chỉnh sửa từ “pháp luật” thành từ “luật” để thống nhất với Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 và Nghị định số 33/2020/NĐ-CP sửa đổi Điều 5 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.
Xác minh điều kiện thi hành án (Điều 27)
- Có ý kiến đề nghị nên quy định rút ngắn thời hạn xác minh như sau: “trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý việc thi hành án thì Chấp hành viên tiến hành xác minh…”. Vì, việc rút ngắn thời hạn sẽ bảo đảm cho việc xác minh được tiến hành ngay và linh hoạt.
- Có ý kiến đề nghị xem xét, sửa đổi khoản 6 Điều 27 theo hướng: (i) chỉ điều chỉnh mối quan hệ giữa Chấp hành viên và các cơ quan, tổ chức, cá nhân nắm giữ thông tin; (ii) không nên đưa nội dung liên quan đến người được thi hành án vào quy định tại khoản này. Vì: (i) bảo đảm tính hợp lý, khả thi; (ii) bảo đảm tính toàn diện khi quy định quyền của Chấp hành viên và người được thi hành án. Theo quy định tại khoản 6, ngoài Chấp hành viên, người được thi hành án cũng có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án phải có trách nhiệm chia sẻ dữ liệu, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan và các cơ quan, tổ chức, cá nhân này phải thực hiện kịp thời, chính xác. Tuy nhiên, trong trường hợp không cung cấp hoặc chậm cung cấp thì trách nhiệm chỉ được quy định đối với yêu cầu của Chấp hành viên, còn đối với yêu cầu của người được thi hành án thì không có quy định về hậu quả pháp lý; (iii) hạn chế việc thiếu thống nhất trong cách hiểu và trong áp dụng pháp luật. Ngoài ra, nếu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và đúng thời hạn về tài sản của người phải thi hành án sẽ góp phần đẩy nhanh tiến độ thi hành án, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
- Có ý kiến đề nghị không áp dụng quy định tại khoản 6 Điều 27 dự thảo Luật đối với các tổ chức tín dụng để bảo đảm phù hợp với pháp luật chuyên ngành và tránh xung đột pháp lý. Vì, việc quy định các tổ chức tín dụng phải cung cấp thông tin cho người được thi hành án sẽ mâu thuẫn với khoản 1 Điều 13 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 quy định về bảo mật thông tin và quy định pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Việc thi hành án dân sự chưa có điều kiện thi hành (Điều 28)
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định cách tính lại thời hiệu trong trường hợp người yêu cầu nộp lại đơn sau khi hồ sơ bị trả lại. Hiện, khoản 2 Điều 24 quy định thời hiệu là 05 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực hoặc nghĩa vụ đến hạn, nhưng chưa rõ đơn trước đó có còn giá trị khi nộp lại sau 05 - 10 năm khi người phải thi hành án mới có điều kiện thi hành án. Đồng thời, cần làm rõ sau khi trả hồ sơ, Chấp hành viên có trách nhiệm tiếp tục xác minh định kỳ theo khoản 2 Điều 27 hay không. Hiện, dự thảo Luật quy định chưa rõ ràng, gây lúng túng khi áp dụng.
Xác định tài sản và xử lý tranh chấp tài sản của người phải thi hành án (Điều 29)
- Có ý kiến đề nghị xem xét lại quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 29 dự thảo Luật theo hướng nếu người được thi hành án không có yêu cầu Tòa án trong thời hạn hợp lý thì tạm hoãn thi hành án, đặc biệt trong trường hợp người phải thi hành án không có tài sản khác. Đồng thời, cần gắn trách nhiệm cho người được thi hành án - người hưởng quyền lợi trực tiếp - để giảm tải cho cơ quan thi hành án dân sự. Vì, theo khoản 1 và khoản 4, trong các trường hợp: (i) chưa xác định được phần quyền sở hữu, quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung; hoặc (ii) có căn cứ xác định giao dịch liên quan đến tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, nếu người được thi hành án không yêu cầu Tòa án giải quyết sau khi được thông báo thì Chấp hành viên phải chủ động yêu cầu Tòa án. Quy định này làm tăng trách nhiệm và áp lực cho Chấp hành viên, nhất là trong các vụ việc phức tạp, tranh chấp kéo dài.
- Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “có thể” tại điểm b khoản 2 Điều 29 để tránh phát sinh cách hiểu không thống nhất, dễ dẫn đến việc né tránh hoặc không áp dụng biện pháp cưỡng chế trong thực tiễn.
- Có ý kiến đề nghị bỏ quy định tại đoạn 2 khoản 4 vì không nên quy định Chấp hành viên khởi kiện thay cho người được thi hành án, trách nhiệm của người phải thi hành án.
Về chuyển giao quyền, nghĩa vụ (Điều 31)
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định loại trừ đối với các nghĩa vụ không thể chuyển giao như nghĩa vụ gắn với nhân thân hoặc những trường hợp pháp luật không cho phép chuyển giao. Mặc dù, điểm b khoản 3 Điều 31 quy định việc chuyển giao nghĩa vụ thi hành án phải có sự đồng ý của người được thi hành án là hợp lý, nhưng cần làm rõ giới hạn áp dụng, để tránh hiểu nhầm mọi nghĩa vụ đều có thể chuyển giao. Việc bổ sung này cũng nhằm bảo đảm tính thống nhất với điểm a khoản 1 Điều 33 về các trường hợp không được hoãn do không thể chuyển giao nghĩa vụ thi hành án.
Về hoãn thi hành án (Điều 33)
- Nhiều ý kiến đề nghị xem xét lại quy định tại điểm e khoản 1 Điều 33, theo hướng không coi đây là trường hợp hoãn thi hành án. Cụ thể, đề xuất tách hai tình huống: (i) trường hợp tài sản, tiền đã thu được mà người được thi hành án không đến nhận sau khi đã được thông báo hợp lệ thì xử lý theo quy định tại Điều 126 Luật Thi hành án dân sự hiện hành về việc trả lại tài sản, tiền tạm giữ; (ii) trường hợp chưa thu được tài sản, đặc biệt là nghĩa vụ giao quyền sử dụng đất hoặc nuôi dưỡng, mà người được thi hành án không đến nhận dù đã được thông báo, thì xem xét đình chỉ thi hành án.
Lý do: điểm e khoản 1 Điều 33 quy định “người được nhận tài sản, người được giao nuôi dưỡng đã được thông báo hợp lệ 2 lần nhưng không đến nhận hoặc chưa xác định được nơi cư trú...” là căn cứ hoãn thi hành án. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, nhiều vụ việc kéo dài hàng năm do người được thi hành án không hợp tác, gây tồn đọng hồ sơ mà không thể kết thúc việc thi hành án. Có trường hợp người được thi hành án yêu cầu giao đất nhưng khi tổ chức giao, lại không đến nhận, làm cho cơ quan thi hành án buộc phải hoãn thi hành kéo dài theo quy định tại Điều 126 Luật Thi hành án dân sự hiện hành. Việc sửa đổi theo hướng trên vừa phù hợp thực tiễn, vừa bảo đảm nguyên tắc tự định đoạt, tự chịu trách nhiệm của đương sự, tránh tình trạng cơ quan thi hành án dân sự bị động “chạy theo” ý chí thay đổi của người được thi hành án.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung hoãn thi hành án trong trường hợp nhận được thông báo thụ lý của Tòa án về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con khi cơ quan thi hành án chưa thực hiện được việc giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng.
- Có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ “...hoặc chưa xác định được địa chỉ nơi cư trú, nơi có trụ sở của người đó” tại điểm a khoản 1 Điều 33, vì nếu căn cứ vào lý do này để hoãn thi hành án thì có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của người được thi hành án, nhất là theo điểm b khoản 1, người phải thi hành án không phải chịu lãi chậm thi hành trong thời gian hoãn.
Đồng thời, đề nghị làm rõ quy định về xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cấp cơ bản, cụ thể: cơ quan, tổ chức nào có thẩm quyền xác nhận; hình thức xác nhận là văn bản riêng hay xác nhận trực tiếp trên đơn hoặc tài liệu kèm theo.
- Có ý kiến đề nghị nghiên cứu, xem xét lại quy định về thời hạn hoãn thi hành án cho phù hợp với thực tiễn.
Hiện, thời hạn hoãn là 03 tháng trong trường hợp chờ xem xét kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên, trên thực tế, một số cơ quan có thẩm quyền (như Viện kiểm sát, Tòa án) thường rút hồ sơ phục vụ việc giám đốc thẩm kéo dài tới 06 tháng theo quy chế nội bộ. Trong thời gian này, giữa các ngành còn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, chưa có quyết định kháng nghị nhưng hồ sơ cũng không được chuyển, gây khó khăn cho cơ quan thi hành án. Hệ quả là: nếu hết thời hạn 03 tháng mà không có quyết định kháng nghị, cơ quan thi hành án vẫn phải tổ chức thi hành bản án. Sau đó, nếu bản án bị hủy để xét xử lại thì quyết định thi hành án ban đầu có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân, phát sinh hệ lụy pháp lý không đáng có.
- Có ý kiến đề nghị cần đánh giá kỹ tác động của một số trường hợp hoãn thi hành án được bổ sung tại Điều 33; bổ sung khoản 4 Điều 33 về các trường hợp hoãn mà gây thiệt hại là phải có trách nhiệm bồi thường, tức là đã mở rộng thêm một trường hợp trách nhiệm bồi thường nhà nước trong trường hợp này; đồng thời, xem xét một số vấn đề khác như:
Khi đang trong thời gian cơ quan thi hành án dân sự kiến nghị các cơ quan xem xét lại kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì có được hoãn thi hành án không? Có phải mọi trường hợp có kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự đối với cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là được hoãn thi hành án dân sự không? Cứ có yêu cầu kiến nghị, yêu cầu hoãn mà cơ quan có thẩm quyền hoãn, gây thiệt hại cho người được thi hành án, đương sự, cơ quan, tổ chức có liên quan thì có phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước không? Có phải cứ hoãn rồi sau này gây thiệt hại là phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước không? Việc hoãn thi hành án theo kiến nghị mà sau này không có kháng nghị hoặc gây thiệt hại cho đương sự, người được thi hành án thì có phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước hay không? Những vấn đề này cần phải được quy định rõ ràng, tránh lạm dụng quyền kiến nghị để trì hoãn thi hành án một cách không cần thiết; đồng thời, bảo đảm trách nhiệm pháp lý trong trường hợp việc hoãn thi hành án gây hậu quả thực tế.
Về thanh toán tiền thi hành án (Điều 41)
Có ý kiến đề nghị xem xét thứ tự thanh toán tiền thi hành án, bảo đảm nghĩa vụ về phí, lệ phí và thuế phải phân định rõ của người phải thi hành án hay của bên mua được tài sản.
Biện pháp bảo đảm thi hành án (Điều 42)
- Có ý kiến đề nghị bỏ biện pháp bảo đảm “tạm hoãn xuất cảnh” vì không thật sự cần thiết. Biện pháp này có thể gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, nhất là đối với người đại diện pháp luật cần ra nước ngoài ký kết hợp đồng, giao dịch. Mục tiêu của biện pháp bảo đảm nên là ngăn chặn việc tẩu tán tài sản, không phải hạn chế quyền đi lại hay hoạt động kinh doanh hợp pháp.
- Có ý kiến đề nghị khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, cơ quan thi hành án cần quy định rõ phạm vi, đối tượng áp dụng hoặc loại trừ những trường hợp cụ thể nhằm tránh gây hiểu nhầm, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Thực tiễn cho thấy, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế như phong tỏa cổ phần, vốn góp của cá nhân là thành viên doanh nghiệp đã dẫn đến việc các tổ chức liên quan (như văn phòng công chứng) từ chối thực hiện các giao dịch khác của doanh nghiệp do lo ngại trách nhiệm pháp lý. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến người phải thi hành án mà còn làm gián đoạn hoạt động kinh doanh bình thường của doanh nghiệp. Nguyên tắc thi hành án cần bảo đảm ngăn chặn việc tẩu tán tài sản, không làm gián đoạn hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp; cần phải cho phép doanh nghiệp tiếp tục hoạt động để tạo ra nguồn thu, qua đó hỗ trợ việc thi hành án đạt chất lượng, hiệu quả.
- Có ý kiến đề nghị cho phép đương sự được lựa chọn biện pháp bảo đảm thi hành án trong trường hợp có đủ điều kiện áp dụng nhiều biện pháp. Việc lựa chọn này cần được ràng buộc bởi nguyên tắc không vi phạm pháp luật, không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên và vẫn bảo đảm ngăn chặn việc tẩu tán tài sản.
- Có ý kiến đề nghị biện pháp bảo đảm thi hành án chỉ nên áp dụng đối với tài sản thuộc diện kê biên, không áp dụng đối với tài sản không được kê biên theo quy định pháp luật.
Quyết định kê biên tài sản (Điều 54)
Có ý kiến đề nghị bổ sung khoản 4 nội dung như sau: “Trong thời gian chưa giao tài sản, cơ quan, tổ chức thi hành án thực hiện thủ tục đứng tên, gửi số tiền thi hành án đã thu được vào ngân hàng theo hình thức tiền gửi không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn theo yêu cầu của người mua tài sản đấu giá. Phần lãi tiền gửi thuộc về người mua tài sản đấu giá”. Vì, khoản tiền là của người mua tài sản đấu giá nên cần quy định cơ chế gửi tiền không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn trên cơ sở có sự tham gia ý kiến, yêu cầu của người mua tài sản đấu giá, nhằm bảo đảm quyền lợi chính đáng cho họ trong thời gian chưa được giao tài sản. Đồng thời, cần phân biệt rõ giữa tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm; do đó, đề nghị sửa lại phần “lãi tiền gửi” chung để phù hợp với quy định của Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành.
Thực hiện kê biên (Điều 56)
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về địa vị pháp lý và trách nhiệm của người chứng kiến trong trường hợp kê biên tài sản khi đương sự vắng mặt. Vì, theo quy định tại Điều 56 dự thảo Luật, trong trường hợp kê biên tài sản mà đương sự vắng mặt, Chấp hành viên phải mời người làm chứng để giám sát việc kê biên. Tuy nhiên, dự thảo Luật chưa xác định rõ địa vị pháp lý, tiêu chuẩn, trách nhiệm và giới hạn tham gia của người làm chứng trong hoạt động thi hành án dân sự. Vì thế, dự thảo Luật cần làm rõ người có mối quan hệ thân thiết đối với đương sự hoặc Chấp hành viên thì có được làm chứng hay không; quy định về một số yêu cầu, điều kiện, hoàn cảnh khác thì không được làm người làm chứng vì không bảo đảm sự khách quan, không giám sát được toàn bộ hoạt động của Chấp hành viên; các trường hợp không được tham gia với tư cách là người làm chứng cũng như trách nhiệm của người làm chứng trong trường hợp có tranh chấp phát sinh.
Đồng thời, xem xét thay thế khái niệm “người làm chứng” bằng “người chứng kiến” để phản ánh đúng vai trò là người giám sát khách quan toàn bộ hoạt động kê biên, thay vì chỉ ghi nhận tình tiết sự việc cụ thể. Khái niệm “người chứng kiến” cũng phù hợp hơn với bản chất của thủ tục thi hành án trong trường hợp đương sự vắng mặt.
Định giá tài sản kê biên (Điều 58)
Có ý kiến đề nghị tăng thời hạn yêu cầu định giá lại tại điểm b khoản 2 thành 10 ngày. Vì, thời gian 05 ngày làm việc như dự thảo hiện tại là quá ngắn để các bên thực hiện yêu cầu định giá lại tài sản. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện cơ chế liên quan đến việc định giá lại để bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ tương xứng của người yêu cầu. Vì, hiện nay, người yêu cầu định giá lại phải chịu chi phí nhưng không được lựa chọn tổ chức thẩm định giá, không được thương lượng phí dịch vụ.
Bán tài sản kê biên (Điều 59)
Có ý kiến đề nghị cân nhắc lại thời hạn ưu tiên mua tài sản kê biên đối với đồng sở hữu, đồng sử dụng để phù hợp với Bộ luật Dân sự năm 2015. Vì, khoản 2 Điều 59 dự thảo Luật quy định thời hạn ưu tiên mua tài sản kê biên là 01 tháng đối với động sản, 03 tháng đối với bất động sản, ngắn hơn so với quy định tại khoản 3 Điều 218 Bộ luật Dân sự năm 2015. Việc rút ngắn thời hạn là cần thiết, tuy nhiên, dự thảo Luật cần bảo đảm tính thống nhất, tránh mâu thuẫn với Bộ luật Dân sự năm 2015.
Giao tài sản để thi hành án (Điều 62)
Có ý kiến đề nghị hoàn thiện Điều 62 theo hướng hài hòa giữa việc bảo vệ người mua tài sản đấu giá ngay tình và việc phục hồi quyền lợi cho người bị xâm phạm do bản án, quyết định bị hủy, sửa. Đồng thời, cần bổ sung cơ chế chi tiết để Tòa án xử lý hậu quả khi bản án bị hủy, sửa nhằm bảo đảm tính khả thi trong thực tiễn.
Vì, theo khoản 3 Điều 62 dự thảo Luật, người trúng đấu giá đã nộp đủ tiền thì vẫn được giao tài sản, trừ trường hợp kết quả đấu giá bị hủy, ngay cả khi bản án, quyết định làm căn cứ thi hành án bị hủy hoặc sửa. Tuy nhiên, quy định này dễ dẫn đến mâu thuẫn giữa việc thi hành án và nội dung quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm, đặc biệt, trong trường hợp quyền sở hữu, quyền tài sản bị xâm phạm do bản án sai. Ví dụ: người bị thi hành án bị bán nhà theo bản án sơ thẩm, phúc thẩm, nhưng sau đó bản án bị hủy vì không có căn cứ buộc trả nợ, thì theo dự thảo Luật, nhà vẫn bị cưỡng chế giao cho người mua trúng đấu giá. Điều này gây bất cập vì quyền lợi của người được tuyên thắng kiện sau giám đốc thẩm lại không được bảo đảm.
Cưỡng chế giao, trả nhà, công trình xây dựng, vật kiến trúc (Điều 65)
- Có ý kiến đề nghị sửa khoản 1 Điều 65 dự thảo Luật như sau: “… Nếu không tự nguyện thực hiện thì Chấp hành viên yêu cầu lực lượng bảo vệ cưỡng chế và lực lượng tham gia cưỡng chế đưa họ cùng tài sản ra khỏi nhà”. Vì, trong thực tiễn cưỡng chế thi hành án, lực lượng tham gia không chỉ gồm Công an với vai trò bảo vệ an ninh, trật tự mà còn có nhiều thành phần khác như dân phòng, đoàn thể địa phương (cựu chiến binh, đoàn thanh niên, hội phụ nữ…), được huy động phù hợp với từng vụ việc và chịu sự phân công của Ban Chỉ đạo cưỡng chế. Việc chỉ quy định “lực lượng bảo vệ cưỡng chế” trong dự thảo Luật chưa phản ánh đầy đủ cơ cấu thực tế và không phù hợp nếu giao nhiệm vụ đưa người và tài sản ra khỏi nhà cho lực lượng bảo vệ cưỡng chế vốn chỉ có nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự.
- Có ý kiến đề nghị quy định rõ việc xác định nhà ở duy nhất của người phải thi hành án để làm căn cứ trích tiền thuê nhà, tránh phát sinh khiếu nại từ người được thi hành án đối với quy định tại khoản 4 Điều 65.
- Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể để xác định “tài sản có giá trị nhỏ”, ví dụ: tài sản có giá trị từ bao nhiêu trở xuống thì được coi là nhỏ, nhằm bảo đảm thống nhất khi áp dụng.
Thông báo thi hành án trong trường hợp đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở nước ngoài (Điều 81)
- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định tại Điều 81 về thi hành án trong trường hợp đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở nước ngoài. Cụ thể: (i) trường hợp trong quá trình tố tụng, cơ quan tố tụng đã thực hiện ủy thác, tương trợ tư pháp nhưng đương sự không có mặt, không phản hồi và bị xét xử vắng mặt thì được coi là đã từ bỏ quyền tham gia tố tụng; (ii) với các trường hợp cố tình trốn tránh như vậy, để bảo đảm tiến độ thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự chỉ cần niêm yết các văn bản thi hành án, không cần lặp lại thủ tục ủy thác, tương trợ tư pháp.
- Có ý kiến đề nghị đối với trường hợp đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở nước ngoài, nếu xác định được địa chỉ và thực hiện được phương thức tương trợ tư pháp tống đạt thì chỉ nên ủy thác tư pháp 01 lần thay vì 02 lần như quy định hiện nay. Vì việc ủy thác 02 lần, mỗi lần 06 tháng như dự thảo Luật sẽ kéo dài thời gian thi hành án, ảnh hưởng đến trình tự tổ chức thi hành án, trong khi thực tiễn cho thấy đã phát sinh nhiều vướng mắc do quy định này.
III. Chương III: Thừa hành viên, Văn phòng thi hành án dân sự (từ Điều 83 đến Điều 89)
Về đổi tên Thừa phát lại thành Thừa hành viên, Văn phòng Thừa phát lại thành Văn phòng Thi hành án dân sự
- Nhiều ý kiến thống nhất với phương án đổi tên Thừa phát lại thành Thừa hành viên, Văn phòng Thừa phát lại thành Văn phòng Thi hành án dân sự, với các lý do sau:
+ Việc đổi tên thành Thừa hành viên thể hiện sự ghi nhận chính thức đối với vai trò ngày càng quan trọng của đội ngũ này trong hệ thống thi hành án dân sự. Tên gọi “Thừa hành viên” rõ ràng, dễ hiểu, phản ánh đúng bản chất công việc là tổ chức thi hành án - điều mà hiện nay nhiều Văn phòng Thừa phát lại đang thực hiện ngày càng phổ biến góp phần tạo sự minh bạch, dễ tiếp cận hơn với người dân và thuận lợi hơn trong phối hợp với cơ quan tố tụng, cơ quan nhà nước tại địa phương.
+ Đồng ý với việc chuyển hóa tên gọi và nâng cao vai trò, vị trí của Thừa phát lại để tương đồng với cơ quan thi hành án dân sự như dự thảo Luật. Trong bốn chức năng của Thừa phát lại, chức năng lập vi bằng là cơ bản, còn chức năng thi hành án hiện không được thực hiện phổ biến vì một số lý do. Kinh nghiệm một số nước cho thấy, khi thực hiện song song hai cơ chế, hoạt động thi hành án do các cơ quan nhà nước thực hiện dần thu hẹp lại, còn xã hội hóa hoạt động thi hành án ngày càng phát triển. Thi hành án do các cơ quan nhà nước thực hiện chủ yếu là các vụ việc chủ động, còn thi hành án theo yêu cầu sẽ do các tổ chức xã hội hóa đảm nhiệm.
Cách tiếp cận này phù hợp với nguyên tắc “việc của dân do dân định đoạt”, Nhà nước giữ vai trò kiểm soát. Dự thảo Luật đã quy định cơ chế kiểm soát, hướng dẫn nghiệp vụ cho Thừa hành viên, Văn phòng Thi hành án dân sự; đồng thời mạnh dạn trao quyền là hoàn toàn hợp lý.
+ Có ý kiến đề nghị quy định rõ lộ trình chuyển đổi từ Văn phòng Thừa phát lại sang Văn phòng Thi hành án dân sự, gồm điều kiện hành nghề, tiêu chuẩn chuyên môn và các chính sách hỗ trợ để bảo đảm tính ổn định, bền vững cho mô hình.
- Một số ý kiến cho rằng, việc đổi tên còn phụ thuộc vào phạm vi hoạt động của Thừa phát lại. Cụ thể:
+ Nếu bỏ chức năng lập vi bằng thì việc đổi tên thành Văn phòng Thi hành án dân sự là phù hợp, vì tên gọi cần phản ánh đúng chức năng, nhiệm vụ. Ngược lại, nếu vẫn giữ chức năng lập vi bằng thì không nên đổi tên, bởi, hiện nay hoạt động này vẫn là nguồn thu chủ yếu của các Văn phòng Thừa phát lại.
+ Việc đổi tên thành Thừa hành viên cũng cần thống nhất với tên gọi của tổ chức - có thể đặt là Văn phòng Thừa hành viên để phù hợp với tên chức danh và mở rộng không gian pháp lý cho việc thực hiện các hoạt động ngoài lĩnh vực thi hành án dân sự. Khi điều kiện chín muồi, chẳng hạn đến năm 2035, có thể xây dựng Luật Thừa hành viên với phạm vi công việc rộng hơn.
- Tuy nhiên, một số ý kiến đề nghị cân nhắc việc đổi tên, cụ thể:
+ Chế định Thừa phát lại đã được thí điểm và áp dụng trên thực tế trong 16 năm, từng bước được người dân biết đến và sử dụng, cho thấy đây là một nghề mới đang phát triển. Do đó, nếu đổi tên, cần quy định rõ tên gọi mới được chuyển đổi từ tên cũ để tránh gây bỡ ngỡ và nhầm lẫn trong xã hội. Đồng thời, cần khẳng định rõ Thừa hành viên vẫn thực hiện đầy đủ bốn nhiệm vụ như Thừa phát lại, trong đó có lập vi bằng nếu không, dễ dẫn đến hiểu nhầm rằng các chức năng còn lại bị loại bỏ.
+ Đề nghị giữ nguyên tên gọi hiện nay, bởi việc đổi tên sẽ kéo theo nhiều thay đổi trong thủ tục hành chính như quyết định thành lập, đăng ký hoạt động, biển hiệu, giấy tờ, sổ sách… gây lãng phí không cần thiết. Hơn nữa, về mặt lịch sử, Thừa phát lại là một chế định đã có từ lâu đời, không nên thay đổi tên gọi khi chưa có sự thay đổi căn bản về chức năng, nhiệm vụ.
Về thẩm quyền của Thừa hành viên (Điều 84)
Nhiều ý kiến ủng hộ dự thảo Luật theo hướng mạnh dạn giao quyền cho Thừa hành viên tương đương Chấp hành viên, nhằm tạo hành lang pháp lý rõ ràng, nâng cao hiệu quả thi hành án. Đặc biệt, về thẩm quyền cưỡng chế thi hành án, có ý kiến cho rằng cần làm rõ hai vấn đề: (i) quyền lực nhà nước trong bảo đảm cưỡng chế; (ii) mối quan hệ giữa thi hành án nhà nước và Thừa phát lại. Hiện, pháp luật vẫn “gắn chung” Thừa phát lại với cơ quan thi hành án nhà nước, dẫn đến lúng túng trong xác định trách nhiệm.
Một số ý kiến khác đề nghị cân nhắc kỹ việc trao quyền cho Thừa hành viên, đặc biệt là quyền cưỡng chế, vì đây là chủ thể khu vực tư, dễ dẫn đến nguy cơ khó kiểm soát, gây lạm quyền. Cụ thể:
+ Về giới hạn quyền: Đề nghị dự thảo Luật bổ sung quy định về những việc Thừa hành viên không được làm, tương tự như Chấp hành viên. Dù quyền năng của hai chức danh gần như tương đồng, nhưng hiện chỉ Chấp hành viên mới có quy định về các hành vi bị cấm. Trong khi đó, Thừa hành viên hoạt động theo yêu cầu của người được thi hành án nhưng cũng cần tôn trọng quyền lợi của bên phải thi hành án và các bên liên quan. Việc chỉ cơ quan giám sát nắm được đạo đức nghề nghiệp của Thừa hành viên là chưa đủ; người dân cũng cần biết rõ hành vi nào Thừa hành viên được làm, hành vi nào vi phạm pháp luật.
+ Về điều kiện hành nghề và ràng buộc trách nhiệm: Thừa hành viên là lực lượng thuộc khu vực tư nên càng cần chuẩn hóa tiêu chuẩn: trình độ, kinh nghiệm, bảo hiểm nghề nghiệp, trách nhiệm bồi thường… tương đương với Chấp hành viên. Ngoài ra, do làm việc trong doanh nghiệp, họ còn phải tuân thủ Luật Doanh nghiệp. Cần làm rõ các tình huống như: có được từ chối vụ việc khó không, việc kéo dài thời gian thi hành án hoặc thu thêm phí ngoài hợp đồng có bị xử lý không…
+ Về nhiệm vụ kiến nghị xử lý vi phạm: Đề nghị bổ sung vào Điều 84 (quy định về Thừa hành viên) nội dung tương tự khoản 7 Điều 13 (quy định về Chấp hành viên) về nhiệm vụ báo cáo thủ trưởng cơ quan thi hành án để kiến nghị xử lý kỷ luật vì trên thực tế, Thừa hành viên không thể tự mình kiến nghị.
+ Về trách nhiệm của Trưởng Văn phòng thi hành án dân sự: Cần quy định rõ trách nhiệm pháp lý và chế tài xử lý đối với Trưởng Văn phòng thi hành án dân sự, người chịu trách nhiệm toàn diện đối với hoạt động nghiệp vụ của Thừa hành viên.
+ Về quyền cưỡng chế: Một số ý kiến cho rằng, cần cân nhắc kỹ việc để Thừa hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế, thu giữ tài sản. Theo dự thảo Luật (khoản 5 Điều 13 và Điều 84), Thừa hành viên có thẩm quyền cưỡng chế như Chấp hành viên, nhưng chưa rõ ai là người ra quyết định cưỡng chế, trong khi Văn phòng thi hành án dân sự chỉ là doanh nghiệp tư nhân. Nguy cơ lạm quyền là có, bởi ngay cả Chấp hành viên thuộc cơ quan thi hành án dân sự nhà nước cũng từng có vi phạm. Việc dự thảo Luật chưa quy định rõ các điều cấm đối với Thừa hành viên càng làm gia tăng rủi ro.
Về bổ nhiệm Trưởng văn phòng/Thừa hành viên (Điều 85)
- Về quy định chuyển tiếp và bổ nhiệm Thừa hành viên: Có ý kiến đề nghị cần bổ sung điều luật quy định về việc chuyển tiếp từ Văn phòng Thừa phát lại thành Văn phòng thi hành án dân sự, từ Thừa phát lại thành Thừa hành viên, để bảo đảm tính liên tục, ổn định của đội ngũ và tổ chức hành nghề. Cụ thể, theo Điều 85 dự thảo Luật, Thừa hành viên phải có ít nhất 02 năm hành nghề mới được làm Trưởng Văn phòng. Tuy nhiên, chưa rõ quy định này áp dụng ra sao đối với các Văn phòng Thừa phát lại đã được thành lập trước đó. Do đó, cần có điều khoản chuyển tiếp phù hợp, tránh gây xáo trộn hoạt động hiện tại.
- Về bổ nhiệm Thừa hành viên trong giai đoạn quá độ: Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về việc bổ nhiệm Thừa hành viên đối với những người có kinh nghiệm, nhất là trong bối cảnh đang sắp xếp lại tổ chức thi hành án dân sự. Việc bổ nhiệm này nhằm tận dụng đội ngũ có thâm niên trong công tác thi hành án dân sự và pháp luật, bù đắp sự thiếu hụt nhân lực cho đội ngũ Thừa hành viên - lực lượng được bổ sung rất hạn chế trong suốt 16 năm qua.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh hoạt động truyền thông để người dân hiểu rõ về vai trò Thừa phát lại/Thừa hành viên; đồng thời, tạo cơ hội để những người có năng lực, từng làm công tác pháp luật nhưng đã rời khu vực nhà nước, có thể yên tâm tiếp tục hành nghề theo hướng xã hội hóa.
- Có ý kiến đề nghị cho phép bổ nhiệm ngang sang Thừa hành viên đối với những người đã là Chấp hành viên trung cấp từ đủ 05 năm trở lên, nhằm tận dụng nguồn nhân lực có kinh nghiệm, đáp ứng yêu cầu xã hội hóa, không trái với phân cấp hiện hành theo Nghị định số 08/2020/NĐ-CP.
- Về đào tạo, đề nghị chương trình đào tạo dành cho Thừa hành viên cần được thiết kế bài bản, chặt chẽ hơn để bảo đảm chất lượng hành nghề.
Về thẩm quyền, thủ tục thi hành án dân sự của Thừa hành viên, Văn phòng thi hành án dân sự (Điều 89)
Có ý kiến đề nghị bổ sung vào khoản 6 Điều 89 đoạn: “trừ trường hợp người được thi hành án và Văn phòng thi hành án dân sự có thỏa thuận khác”.
Lý do: khoản 6 Điều 89 hiện quy định việc thi hành án của Thừa hành viên chấm dứt nếu “người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án tại nơi Văn phòng thi hành án dân sự đặt trụ sở”. Quy định này gây hạn chế khi tài sản thi hành án ở ngoài địa bàn cấp tỉnh, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người được thi hành án. Nếu cho phép thỏa thuận giữa người được thi hành án và Văn phòng, thì có thể linh hoạt xử lý các tình huống như: Văn phòng tại Ba Đình đang thi hành án, nhưng tài sản ở Hưng Yên, tuy nhiên, khi có thỏa thuận, Văn phòng ở Hưng Yên có thể ra quyết định và tổ chức thi hành án. Điều này bảo đảm hiệu quả thi hành án và quyền lợi của người được thi hành án.
IV. Chương IV: Khiếu nại, tố cáo, kháng nghị, kiến nghị (từ Điều 90 đến Điều 94)
Thời hiệu khiếu nại (Điều 90)
Có ý kiến đề nghị nên quy định thời hiệu chung là 10 ngày cho cả ba nhóm quyết định, hành vi bị khiếu nại. Vì, các lý do: (i) khi người có quyền khiếu nại nhận được quyết định, họ sẽ phản ứng kịp thời nếu không đồng ý, do đó thời hiệu 10 ngày là hợp lý; (ii) việc rút ngắn thời hiệu cũng đồng bộ với chủ trương rút ngắn quy trình, thủ tục thi hành án; (iii) nếu để thời hiệu kéo dài sẽ làm chậm tiến độ các bước tiếp theo như thỏa thuận giá, thẩm định giá, ký hợp đồng bán đấu giá, giao tài sản… và ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên liên quan.
Ngoài ra, dự thảo Luật tăng nhiệm vụ giải quyết khiếu nại lần đầu cho cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh (thay cho 03 cấp trước đây), vì vậy, cần thiết phải rút gọn thời hiệu để bảo đảm hiệu quả thực thi.
Trường hợp khiếu nại không được thụ lý giải quyết (Điều 91)
Đề nghị bổ sung quy định: không thụ lý giải quyết khiếu nại đối với vụ việc đã được giải quyết bằng kết luận tố cáo trước đó hoặc đã có văn bản trả lời, hướng dẫn của người có thẩm quyền về cùng nội dung. Vì, thực tế, có nhiều trường hợp công dân chuyển đổi đơn từ khiếu nại sang tố cáo và ngược lại đối với cùng một hành vi, gây lãng phí nguồn lực và kéo dài quy trình xử lý. Việc bổ sung quy định này sẽ góp phần giảm tải cho cơ quan nhà nước, bảo đảm thống nhất, tránh tình trạng cùng một hành vi phải xem xét, xử lý nhiều lần dưới các hình thức khác nhau.
Tố cáo thi hành án (Điều 94)
Có ý kiến đề nghị bổ sung: Không thụ lý giải quyết tố cáo đối với trường hợp hành vi vi phạm đã được cá nhân khiếu nại và có kết quả giải quyết nhưng nay không nhất trí, chuyển sang tố cáo. Vì, dự thảo Luật viện dẫn việc giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự thực hiện theo Luật Tố cáo. Tuy nhiên, Luật Tố cáo hiện hành chưa đặt ra trường hợp hành vi vi phạm đã được cá nhân khiếu nại và có kết quả giải quyết nhưng nay không nhất trí, chuyển sang tố cáo nên cần phải bổ sung vào dự thảo Luật.
V. Một số ý kiến khác
Về huy động nguồn lực trong xã hội hóa công tác thi hành án dân sự
Đề nghị chú trọng hai nguồn lực chính là tài chính và nhân lực:
Về tài chính: Cần tăng cường trách nhiệm tài chính của người phải thi hành án, người được thi hành án và các bên liên quan trong việc chi trả phí, chi phí thi hành án. Cơ chế miễn, giảm cũng nên áp dụng đối với cả thi hành án theo yêu cầu. Trường hợp không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thi hành án, các bên liên quan phải chịu trách nhiệm thanh toán chi phí phát sinh. Khuyến khích khu vực tư nhân hỗ trợ tài chính, đầu tư công nghệ, trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác thi hành án.
Về nhân lực: Khuyến khích tổ chức, cá nhân ngoài Nhà nước tham gia hoặc trực tiếp tổ chức thi hành án để chia sẻ gánh nặng với Nhà nước. Cần trao quyền đầy đủ cho Thừa hành viên để tổ chức cưỡng chế thi hành án. Hoạt động kiểm sát cần linh hoạt, tránh gây cản trở. Cơ quan thi hành án dân sự nhà nước tập trung vào các vụ việc mang tính chủ động, bảo vệ lợi ích công, hỗ trợ người yếu thế và những trường hợp Thừa hành viên không thực hiện được.
Về cơ chế chuyển đổi giữa thi hành án nhà nước và thi hành án tư
Đề nghị bổ sung quy định về cơ chế chuyển hóa thi hành án giữa cơ quan thi hành án nhà nước và Văn phòng thi hành án dân sự/Văn phòng Thừa hành viên. Vì trên thực tế, có trường hợp người dân ban đầu yêu cầu cơ quan thi hành án nhà nước tổ chức thi hành, nhưng sau đó chuyển sang dịch vụ thi hành án tư (hoặc ngược lại). Do đó, cần có quy định rõ ràng cơ chế để bảo đảm việc chuyển đổi được thực hiện minh bạch, thuận lợi và không làm gián đoạn quá trình thi hành án.
Về quy định rút ngắn thời gian thi hành án
Hầu hết ý kiến đều đồng tình với định hướng rút ngắn thời gian thi hành án trong dự thảo Luật, vì đây là điểm tiến bộ, phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính và thực tiễn thi hành án dân sự. Một số nội dung cụ thể được đánh giá tích cực gồm:
- Rút ngắn thời hạn hiện hành: nhiều quy định không còn cần thiết đã được lược bỏ, giúp phân định rõ trách nhiệm giữa Chấp hành viên và đương sự, đồng thời giảm thời gian xử lý.
- Tăng cường tính chủ động: quy định Chấp hành viên chủ động chi trả tiền thi hành án trong các vụ án lớn là hợp lý, góp phần bảo đảm quyền lợi người dân và đẩy nhanh tiến độ giải quyết.
- Giải quyết các vướng mắc thực tiễn: dự thảo Luật có điều chỉnh phù hợp với các vụ việc có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, cần tiếp tục nghiên cứu rút ngắn quy trình ủy thác tư pháp (hiện mất đến 12 tháng) và tăng cường áp dụng phương thức điện tử, buộc đương sự cập nhật địa chỉ, hỗ trợ xác minh nhanh hơn.
- Hiện đại hóa quy trình thi hành án dự thảo Luật đề cập rõ hơn các bước như thông báo, xác minh, thu chi... theo hướng điện tử hóa, giảm tải công việc thủ công.
- Cơ chế trả đơn: tuy khái niệm “trả đơn” dễ gây hiểu nhầm, nhưng thực chất nếu không có khả năng thi hành án thì vẫn nên trả đơn thay vì giữ lại gây lãng phí. Vì vậy, cần bổ sung và quy định rõ về thông báo cho đương sự biết về quyền yêu cầu thi hành án lại, tính lại thời hiệu thi hành án... để bảo đảm quyền lợi người của người dân nói chung và người được thi hành án nói riêng.
- Đồng bộ với số hóa quyền tài sản: việc rút ngắn thời gian thi hành án sẽ khả thi khi đẩy mạnh số hóa dữ liệu tài sản, điều này đã được chứng minh ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, trong thực tiễn, các quy định về thời hạn hiện hành còn chưa thực hiện được, nên việc tiếp tục rút ngắn có thể gây áp lực lớn, dẫn đến hình thức hoặc bỏ sót trách nhiệm.
Về yêu cầu nộp bản gốc bản án, quyết định
Có ý kiến đề nghị không nên quy định người yêu cầu thi hành án phải nộp bản gốc bản án, quyết định vì dự thảo Luật và pháp luật hiện hành đã quy định Tòa án phải gửi bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án dân sự, nên cơ quan này đã có bản án, quyết định trong hồ sơ. Trong khi đó, người dân chỉ được cấp một bản, việc xin trích lục bản án làm phát sinh thủ tục, chi phí cho người dân.
Về thời gian tổ chức cưỡng chế
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về thời gian tổ chức cưỡng chế để bảo đảm tính kịp thời và hiệu quả trong thi hành án. Hiện, dự thảo Luật chưa xác định rõ khoảng thời gian từ khi ra quyết định cưỡng chế đến khi thực hiện cưỡng chế, chỉ nêu chung chung về việc phối hợp với công an và bảo đảm điều kiện an toàn. Việc này dễ dẫn đến tình trạng chậm trễ, thiếu minh bạch.
Về vai trò của luật sư trong thi hành án
Có ý kiến đề nghị bổ sung cơ chế, làm rõ và bổ sung, tăng thêm vai trò của luật sư trong thi hành án, bảo đảm tương tự như trong hoạt động tố tụng tại Tòa án. Việc này nhằm tăng cường phối hợp giữa luật sư và cơ quan thi hành án, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án và thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động này.
Về xác minh điều kiện thi hành án và đánh giá giao dịch tài sản liên quan đến bên thứ ba
Có ý kiến đề nghị Chấp hành viên cần đánh giá toàn diện và linh hoạt khi xác minh điều kiện thi hành án, tránh áp dụng pháp luật một cách máy móc, nhất là với tài sản đang trong quá trình giao dịch với bên thứ ba.
Thực tiễn cho thấy có sự khác biệt giữa quy định của Luật Nhà ở (hiệu lực giao dịch từ thời điểm ký kết) và Bộ luật Dân sự (hiệu lực khi đăng ký quyền sử dụng đất). Trong một số trường hợp, bên thứ ba đã thanh toán phần lớn giá trị hợp đồng và Tòa án vẫn công nhận giao dịch, kể cả khi chưa sang tên.
Vì vậy, nếu Chấp hành viên chỉ căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xác định chủ sở hữu mà không xem xét bối cảnh giao dịch thực tế, việc phong tỏa, cưỡng chế tài sản có thể xâm phạm quyền lợi hợp pháp của bên thứ ba. Do đó, đề nghị Chấp hành viên cần đánh giá toàn diện hồ sơ, căn cứ pháp lý và thực tiễn để bảo đảm việc thi hành án đúng quy định và công bằng.
Về ứng dụng công nghệ thông tin trong thi hành án
Có ý kiến đề nghị cần đẩy mạnh hơn nữa việc ứng dụng công nghệ thông tin, cụ thể: bổ sung quy định về app trong chuyển đổi số thi hành án, trong đó đương sự và các bên liên quan có thể theo dõi toàn bộ quyền, nghĩa vụ, tiến trình thụ lý, giải quyết vụ việc… trên app.
Nhất trí bổ sung nguyên tắc tại khoản 6 Điều 4 dự thảo Luật và các quy định liên quan như thông báo, biên lai điện tử. Tuy nhiên, cần rà soát, quy định rõ hơn trong các thủ tục khác, đặc biệt là đảm bảo chữ ký số thay cho ký tay đối với các quyết định thi hành án. Ứng dụng mạnh mẽ AI với các công cụ dễ sử dụng như ChatGPT, Gemini, NotebookLM, AI Studio… Cơ sở dữ liệu điện tử về thi hành án cần được tổng hợp đầy đủ, xây dựng thành cơ sở dữ liệu lớn (Big Data) để phục vụ việc phân tích, ra quyết định trong thi hành án được chính xác.
Về phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật
Có ý kiến đề nghị cần rà soát lại phạm vi điều chỉnh dự thảo Luật, vì một số nội dung như thủ tục tái thẩm, kháng nghị, về miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, trách nhiệm thi hành án… đã được luật tố tụng quy định và thuộc phạm vi điều chỉnh của luật tố tụng, không nên đưa vào dự thảo Luật.
Ban Tạp chí điện tử (tổng hợp)
. 10 ý kiến phát biểu trực tiếp và 09 ý kiến phát biểu trực tuyến.
. Việc tổng hợp ý kiến góp ý được đối chiếu theo quy định tại Dự thảo 4 Luật Thi hành án dân sự năm 2025.
. Tương tự như khi xây dựng Luật Công chứng đã quy định toàn diện về tất cả cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong lĩnh vực công chứng văn bản, giao dịch.
. Nếu tiếp thu đề nghị này, cần rà soát Điều 17 dự thảo Luật để chỉnh sửa cho tương thích.