
Luật Thi hành án dân sự đã tạo hành lang pháp lý, bảo đảm cho công tác thi hành án dân sự minh bạch, hiệu quả hơn
Sau khi Luật Thi hành án dân sự được ban hành, Chính phủ, Bộ Tư pháp và các bộ, ngành, địa phương luôn quan tâm, thường xuyên nghiên cứu, rà soát các văn bản, kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc tham mưu sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật để thực hiện có hiệu quả, thống nhất. Các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trực tiếp đến hoạt động thi hành án dân sự liên tục được hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước ở từng giai đoạn. Đến nay, có tổng số 56 văn bản trong lĩnh vực thi hành án dân sự đang có hiệu lực thi hành, gồm 03 luật, 02 nghị quyết, 05 nghị định; 46 quyết định, thông tư, Thông tư liên tịch (trong đó có 21 thông tư do Bộ Quốc phòng ban hành)[1]. Để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thi hành án dân dân sự, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan tham mưu ban hành nhiều công văn chỉ đạo, hướng dẫn tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Luật Thi hành án dân sự.
Tại địa phương, các cơ quan thi hành án dân sự đã chủ động phối hợp với Sở Tư pháp tham mưu giúp Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng và ban hành các kế hoạch, chỉ thị, văn bản chỉ đạo triển khai thi hành Luật…
Quy trình, thủ tục thi hành án dân sự từng bước được hoàn thiện
Tác động trực tiếp và nổi bật nhất của Luật Thi hành án dân sự cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành đối với công tác thi hành án dân sự là các quy định về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Luật Thi hành án dân sự có bước tiến quan trọng về kỹ thuật và nội dung lập pháp, thể hiện trong các quy định về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự từ giai đoạn thụ lý, tổ chức thi hành và kết thúc thi hành án.
Quy trình, thủ tục thi hành án dân sự từng bước được hoàn thiện, xác định rõ quyền, nghĩa vụ của đương sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan; quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên, cơ quan, tổ chức trong thi hành án dân sự; quy định thời hạn thực hiện các thủ tục thi hành án dân sự, các khoản phí, chi phí thi hành án... Các quy định mới về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án; cơ chế định giá tài sản qua tổ chức thẩm định giá; biện pháp cưỡng chế thi hành án... được xây dựng đã khắc phục được tồn tại, hạn chế so với giai đoạn trước đây. Bên cạnh đó, các quy định của Luật Thi hành án dân sự được đánh giá là nghiêm minh nhưng vẫn bảo đảm tính nhân văn trong pháp luật[2].
Hệ thống tổ chức thi hành án dân sự phù hợp với yêu cầu của thực tiễn
Luật Thi hành án dân sự quy định:“Cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp”, quy định này đã tăng cường vị thế cơ quan thi hành án dân sự, tương xứng chức năng, nhiệm vụ được giao, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, chỉ đạo chuyên ngành, thống nhất từ Trung ương đến cấp huyện, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương đối với công tác thi hành án dân sự.
Xuất phát từ đặc điểm, yêu cầu của hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động có liên quan, ảnh hưởng đến nhiều mối quan hệ xã hội, cần có sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhau, pháp luật đã quy định cụ thể trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, tổ chức, nhất là của các cơ quan tư pháp trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong đó, các văn bản luật đã xác định cơ quan thi hành án dân sự giữ vai trò trung tâm, chịu trách nhiệm chính và phối hợp với các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện nhiệm vụ về thi hành án dân sự. Thủ tục, thời hạn trong phối hợp cũng được quy định khá cụ thể, bảo đảm việc thi hành bản án, quyết định được thuận lợi, hiệu quả.
Với tính chất là một hoạt động tư pháp, quyền lực trong thi hành án dân sự được kiểm soát chặt chẽ bởi chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân các cấp theo quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Cùng với đó, thông qua các quy định của pháp luật, cơ chế kiểm soát quyền lực trong hoạt động thi hành án dân sự đã được định hình, củng cố, tăng cường và thể hiện rõ nét qua nhiều phương thức khác nhau, từ kiểm soát của cơ quan quyền lực nhà nước, kiểm soát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Thực tiễn hoạt động và kết quả đạt được thời gian qua cho thấy việc thành lập hệ thống cơ quan thi hành án dân sự với mô hình thống nhất ngành dọc, có sự phối hợp song trùng với cấp ủy, chính quyền địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo như hiện nay là phù hợp với yêu cầu thực tiễn, tính chất đặc thù của hoạt động thi hành án; phù hợp với tiến trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp ở nước ta; bảo đảm nguyên tắc tập trung thống nhất theo đúng chủ trương của Đảng đã đề ra.
Với tính chất của hoạt động thi hành án dân sự, mô hình hệ thống thi hành án dân sự hiện nay đã mang lại hiệu quả nhất định như: (i) Bảo đảm thống nhất về tổ chức và thực hiện hoạt động nghiệp vụ; (ii) Thiết lập, duy trì được mối quan hệ phối hợp với Ủy ban nhân dân cùng cấp, tranh thủ được sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và chính quyền địa phương và thuận lợi trong việc phối hợp với các cơ quan, ban, ngành có liên quan tại địa phương; (iii) Gần dân, tạo điều kiện thuận lợi cho Nhân dân trong việc thực hiện các quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm liên quan đến công tác thi hành án dân sự; (iv) Phù hợp với các mô hình cơ quan tố tụng, tư pháp như Cơ quan điều tra, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân - là các cơ quan có quan hệ mật thiết tới công tác thi hành án dân sự.
Việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác thi hành án dân sự theo quy định của Luật Thi hành án dân sự đã cơ bản được hoàn thành. Vị thế cơ quan thi hành án dân sự được nâng lên và nhận được sự quan tâm nhiều hơn của cấp ủy, chính quyền địa phương và các cấp, các ngành; công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp ngày càng được tăng cường và triển khai ngày càng bài bản. Các cơ quan thi hành án dân sự cơ bản đã được đầu tư xây dựng trụ sở, kho vật chứng, cung cấp trang thiết bị đáp ứng yêu cầu làm việc và tổ chức thi hành án. Hệ thống thi hành án dân sự đã đầu tư xây dựng và vận hành cổng thông tin điện tử, hệ thống truyền hình trực tuyến đa phương tiện, các phần mềm quản lý nghiệp vụ thi hành án dân sự…
Nhiệm vụ tiếp tục hoàn thiện pháp luật liên quan đến thi hành án dân sự
Sau gần 17 năm triển khai thi hành Luật, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế và bảo đảm trật tự an toàn xã hội của đất nước. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều văn bản quan trọng đã xác định rõ yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục hoàn thiện pháp luật liên quan đến thi hành án dân sự như: Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới; Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 02/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; Quy định số 132-QĐ/TW ngày 27/10/2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; Quy định số 183-QĐ/TW ngày 18/9/2024 của Bộ Chính trị về bảo vệ cơ quan, tổ chức, người thi hành công vụ trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án…
Ngoài ra, thực hiện chủ trương xã hội hóa một số hoạt động thi hành án dân sự theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX, Quốc hội đã ban hành các Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008, Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 và Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 về thực hiện chế định Thừa phát lại; Chính phủ đã ban hành Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 quy định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại. Theo đó, Thừa phát lại đã hoạt động từ năm 2008, từng bước đi vào đời sống xã hội. Tuy nhiên, kết quả về hoạt động thi hành án dân sự của Thừa phát lại còn rất hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là yêu cầu tại Nghị quyết số 27-NQ/TW đề ra. Do vậy, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật, tạo cơ sở pháp lý về thi hành án phù hợp để Thừa phát lại thực hiện một số hoạt động, như áp dụng các biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án dân sự, yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, xác định, phân chia tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung...
Bên cạnh đó, Luật Thi hành án dân sự đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc: (i) Tổng số việc phải thi hành chuyển kỳ sau vẫn còn cao; số chưa có điều kiện thi hành án, nhất là về tiền chiếm tỷ lệ cao so với tổng số phải thi hành. Kết quả thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án tham nhũng, kinh tế đạt được vẫn chưa đáp ứng yêu cầu; (ii) Việc thực hiện yêu cầu phối hợp của cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan chức năng chưa hiệu quả; (iii) Quy trình tổ chức thi hành án còn dài; để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, cơ quan thi hành án dân sự phải thực hiện nhiều thủ tục, mất nhiều thời gian, chi phí, dẫn đến sai phạm, thiếu sót đã được phát hiện qua hoạt động kiểm tra, thanh tra; (iv) Số lượng các vụ việc tranh chấp kinh tế, dân sự có xu hướng ngày càng tăng, tính chất của các vụ việc ngày càng phức tạp, nhất là những vụ việc phải kê biên, xử lý tài sản bảo đảm là bất động sản có giá trị lớn; tình trạng pháp lý của tài sản thi hành án thường phức tạp dẫn đến sai phạm; (v) Chưa có cơ chế hiệu quả để xác định, xử lý nghiêm hành vi vi phạm hành chính, hình sự với trường hợp đương sự cố tình trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, che giấu, cản trở, chống đối người thi hành công vụ trong thi hành án dân sự; cơ chế miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, hoãn hoặc đình chỉ thi hành còn bất cập; (vi) Tổ chức, hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, người có thẩm quyền trong thi hành án dân sự; vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong thi hành án dân sự cần tiếp tục được hoàn thiện để phù hợp với chủ trương sắp xếp, tinh gọn bộ máy; (vii) Chưa có cơ chế phù hợp để bảo vệ chấp hành viên, người làm công tác thi hành án dân sự; đảm bảo nguồn lực cho hệ thống thi hành án dân sự trong bối cảnh chuyển đổi số và yêu cầu nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự.
Vì vậy, cần ban hành Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) nhằm tiếp tục thể chế hóa đầy đủ, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước về đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự; khắc phục những hạn chế, bất cập, bảo đảm các bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền được thực thi hiệu quả; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước; góp phần giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật; tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội.
Ảnh: internet
[1] Báo cáo tổng kết thi hành Luật Thi hành án dân sự của Bộ Tư pháp trình Chính phủ tháng 5/2025.
[2] Như: Không tổ chức cưỡng chế vào ngày nghỉ, ngày lễ, ngày tết; ban đêm; một số loại tài sản không được kê biên; miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự đối với khoản thu, nộp ngân sách nhà nước; không thu hoặc miễn, giảm phí thi hành án... nhằm bảo đảm các điều kiện sinh sống của người phải thi hành án hoặc đảm bảo an sinh xã hội.