Thứ sáu 06/06/2025 23:59
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Áp dụng pháp luật bảo vệ môi trường trong kiểm soát ô nhiễm môi trường nước

Hoạt động kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường nước là một hoạt động quan trọng không thể thiếu trong vấn đề bảo vệ môi trường. Hiện nay, pháp luật môi trường đã có một số quy định điều chỉnh về vấn đề bảo vệ môi trường nước tại các lưu vực sông, ao, hồ, kênh, mương rạch, hồ chứa nước và nước dưới đất. Tuy nhiên, vấn đề tuân thủ, áp dụng và thực hiện các quy định pháp luật về kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường nước còn nhiều vấn đề bất cập. Vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá chỉ ra những điểm hạn chế, bất cập trong việc áp dụng các quy định pháp luật bảo vệ môi trường vào hoạt động kiểm soát, xử lý ô nhiễm nguồn nước để từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục hoàn thiện là vô cùng quan trọng và cấp thiết.


1. Thực trạng áp dụng pháp luật bảo vệ môi trường trong kiểm soát ô nhiễm môi trường nước

Hiện nay, mặc dù Nhà nước đã xây dựng và ban hành các quy định pháp luật điều chỉnh về vấn đề kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường nước. Tuy nhiên, việc tuân thủ và thực hiện theo đúng các yêu cầu pháp luật quy định chưa thật sự đạt hiệu quả, tình trạng vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường nước còn phổ biến, nhiều vụ việc gây bức xúc dư luận xã hội còn tồn tại.

Hoạt động kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường nước tại các lưu vực sông trên địa bàn tại các địa phương chưa đạt yêu cầu. Hiện nay, đa phần tại các địa phương chưa có hệ thống thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt, nước thải từ hoạt động của các khu công nghiệp, cụm công nghiệp chưa được thu gom, xử lý triệt để. Nước thải từ hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm và hoạt động khai thác tài nguyên cát gây xói mòn đất đã làm gia tăng độ đục trong nước, tạo điều kiện cho các kim loại nặng như sắt, nhôm và các chất ô nhiễm khác lan tỏa vào nguồn nước. Thậm chí, có nơi mặc dù lưu vực sông đã bị ô nhiễm trầm trọng, sức chịu tải suy giảm nhưng các chủ thể vẫn mặc nhiên thực hiện các hoạt động phát thải vào nguồn nước mà không hề thực hiện các biện pháp xử lý cần thiết trước khi thải ra ngoài môi trường. Nhiều công trình lấn chiếm sông được xây dựng một cách vô tội vạ gây tác động cản trở đến dòng chảy của sông và ảnh hướng đến sự đa dạng môi trường sinh thái. Tất cả những điều đó đã làm cho hệ thống sông ngòi tại các địa phương bị suy thoái, ô nhiễm nặng, gây ra nhiều hệ lụy tác động tiêu cực đến sức khỏe, đời sống cũng như các hoạt động phát triển kinh tế của người dân.

Hơn nữa, đa phần việc thu gom chất thải tại các địa phương đều giao khoán cho các đơn vị tư nhân tự thực hiện và tự liên hệ tìm chỗ xử lý, tuy nhiên, hiện nay phần lớn khối lượng chất thải sau khi thu gom đã được xử lý bằng cách đổ xuống sông, điều này làm ảnh hưởng môi trường sống xung quanh và gây ô nhiễm môi trường nước. Nước thải y tế ở các bệnh viện hầu hết chưa xử lý chưa đạt yêu cầu trước khi xả thải trực tiếp xuống các lưu vực sông. Tình trạng người dân sử dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu độc hại và thải bỏ trực tiếp các bào bì chứa đựng các loại hóa chất độc hại vào nước sông rất phổ biến làm cho môi trường nước bị ô nhiễm nghiêm trọng. Bên cạnh đó, việc đầu tư cho xử lý nước thải, bùn đáy ao trong nuôi trồng thủy sản chưa được quan tâm đúng mức, nhiều nơi còn trực tiếp thải ra sông, làm cho nguồn nước bị ô nhiễm nặng[1]. Nhiều có sở sản xuất, chế biến, kinh doanh không đầu tư xây dựng công trình xử lý nước thải hoặc có xây dựng nhưng không đồng bộ, nước thải sau xử lý không đạt tiêu chuẩn quy định. Công tác quản lý kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường nước ở các lưu vực sông tại các địa phương trong thời gian qua đã được tăng cường, nhiều văn bản được ban hành, nhiều hoạt động kiểm tra, giám sát được thực hiện để bảo vệ nguồn nước trước tình trạng bị ô nhiễm. Tuy nhiên, việc thực hiện chưa thật sự hiệu quả, còn nhiều mặt hạn chế, thiếu chặt chẽ, nhiều nơi chưa quan tâm đúng mức, né tránh trách nhiệm, chạy theo thành tích, che giấu sự thật, đổ lỗi khách quan, chưa thấy hết trách nhiệm của mình. Mặt khác, công tác quan trắc môi trường nước để phục vụ cho hoạt động kiểm soát và xử lý ô nhiễm nguồn nước mới chỉ có ở cấp tỉnh, cấp huyện và cơ sở chưa có nhiệm vụ này, việc phân cấp còn nhiều bất cập, trình độ nghiệp vụ của cán bộ và cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu.

Hoạt động kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường nước tại các ao, hồ, kênh, mương, rạch cũng chưa được quan tâm và thực hiện đúng mức. Tình trạng tổ chức, cá nhân thực hiện các hành vi lấn chiếm, xây dựng trái phép các công trình, nhà ở trên mặt nước hoặc trên bờ tiếp giáp với mặt nước hồ, ao, kênh, mương, rạch vẫn còn phổ biến, tình trạng san lấp ao, hồ trong các khu dân cư, khu đô thị diễn ra rất phổ biến điều này làm cho môi trường nước tại các ao, hồ, kênh, mương, rạch bị ô nhiễm, suy thoái nghiêm trọng.

Bên cạnh đó, hoạt động bảo vệ, kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường nước tại các hồ chứa nước và nguồn nước dưới đất trên địa bàn vẫn chưa thật sự thực hiện hiệu quả. Hiện nay, các hồ chứa nước chưa được đầu tư, quản lý, khai thác, sử dụng đúng mức, hiệu quả, một số công trình có nguy cơ xuống cấp. Các hoạt động khai thác nước ngầm dưới góc độ tự phát diễn ra phổ biến cùng với việc các chủ thể có hoạt động thăm dò, khai thác nguồn nước ngầm chưa thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong việc xử lý ô nhiễm nguồn nước dưới đất đã làm cho nguồn nước ngầm trên nhiều địa bàn tỉnh bị suy giảm, cạn kiệt và ô nhiễm trầm trọng. Tình trạng nguồn nước ngầm bị nhiễm mặn, nhiễm phèn diễn ra rất phổ biến, lượng nước sạch không đủ để đáp ứng, phục vụ nhu cầu sinh hoạt của con người.

Từ thực trạng nêu trên có thể thấy, hiện nay vấn đề áp dụng các quy định pháp luật bảo vệ môi trường trong việc kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường nước còn tồn tại nhiều vấn đề hạn chế, bất cập. Sự hạn chế, bất cập này xuất phát từ nhiều lý do khác nhau. Cụ thể:

Thứ nhất, các quy định về kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường nước vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể làm cho quá trình áp dụng khó khăn, lúng túng. Đơn cử như trường hợp pháp luật quy định việc phát thải vào lưu vực sông phải được quản lý phù hợp với sức chịu tải của sông; chất lượng nước sông và trầm tích phải được đánh giá theo dõi (khoản 2, khoản 3 Điều 52 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014). Như vậy, quản lý như thế nào là phù hợp với sức chịu tải của sông, để xác định sức chịu tải của sông phải căn cứ vào những tiêu chí nào hay khi thực hiện việc đánh giá, theo dõi chất lượng nước sông hoặc trầm tích thì cần phải căn cứ vào đâu, việc theo dõi, đánh giá phải tuân thủ theo những quy trình nào cho phù hợp. Tất cả những vấn đề trên chưa được pháp luật môi trường quy định rõ ràng, cụ thể, minh bạch điều này gây rất nhiều khó khăn cho việc triển khai áp dụng trên thực tế, tạo điều kiện cho các chủ thể có cơ hội để lách luật gây nhiều hậu quả tiêu cực cho vấn đề kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường nước. Bên cạnh đó, các quy định về điều tra, đánh giá trữ lượng, chất lượng, điều hòa nguồn nước tại các ao, hồ, sông, suối, kênh, rạch cũng còn rất chung chung, chưa có sự điều chỉnh rõ ràng, chưa đảm bảo tính khả thi trong việc triển khai áp dụng trên thực tế.

Thứ hai, ở cấp độ địa phương, mặc dù các cơ quan chức năng đã xây dựng, ban hành một số văn bản pháp luật điều chỉnh các vấn đề về bảo vệ, kiểm soát, xử lý ô nhiễm nguồn nước trên địa bàn. Tuy nhiên, với tình trạng môi trường nước đang ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng trước sự tác động của con người thì với số lượng văn bản do các địa phương ban hành cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa đủ để đáp ứng kịp thời nhu cầu trên thực tế, nhiều vấn đề chưa được hướng dẫn chi tiết. Điều này làm cho các chủ thể áp dụng pháp luật gặp nhiều khó khăn, lúng túng, dẫn đến công tác áp dụng pháp luật bảo vệ môi trường vào hoạt động kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường nước không đạt kết quả cao.

Thứ ba, các vấn đề về triển khai áp dụng thực hiện các quy định pháp luật vào hoạt động xây dựng hành lang bảo vệ nguồn nước, bảo vệ lòng, bờ bãi sông, phòng, chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước tại địa phương chưa được chú trọng. Công tác lập quy hoạch tài nguyên nước, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình hồ chứa thủy lợi chưa được quan tâm đúng mức. Công tác xây dựng quy hoạch hồ chứa nước, các công trình hạ tầng đô thị chưa được tính toán khoa học, phù hợp với hiện trạng và sức chịu tải của môi trường nước tại địa bàn. Việc chỉ đạo, triển khai, vận hành mạng lưới quan trắc, theo dõi diễn biến chất lượng môi trường còn lơ là. Cơ chế phối hợp tổ chức hoạt động giữa các cơ quan, ban ngành tại địa phương chưa nhịp nhàng, đồng bộ, tình trạng nể nang, lợi ích nhóm còn tồn tại. Hoạt động đầu tư xây dựng, hoạn thiện các công trình xử lý nước thải, chất thải để phục vụ cho hoạt động tiếp nhận, xử lý chất thải trên địa bàn thực hiện chưa hiệu quả.

Thứ tư, tình trạng người dân trên địa bàn thiếu ý thức trong việc bảo vệ môi trường nước diễn ra khá phổ biến. Đa phần người dân và doanh nghiệp chỉ quan tâm đến lợi của bản thân mà không quan tâm đến lợi chung của cộng đồng. Nhiều người xem hoạt động kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường nước là trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước hoặc của các chủ thể cung ứng dịch vụ kiểm soát, xử lý nguồn nước ô nhiễm. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản chủ chốt dẫn đến tình trạng hoạt động kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường nước tại địa bàn hiện nay gặp nhiều khó khăn và không đạt kết quả như mong muốn.

Như vậy, không thể phủ nhận vai trò của các quy định pháp luật bảo vệ môi trường trong việc duy trì, bảo vệ, kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường nước. Tuy nhiên, vấn đề áp dụng pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường nước vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập. Vì vậy, cần phải có những giải pháp phù hợp, hiệu quả để khắc phục, hoàn thiện vấn đề này.

2. Giải pháp hoàn thiện

Để khắc phục các vấn đề bất cập trong việc áp dụng các quy định pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động kiểm soát, xử ô nhiễm môi trường nước như đã phân tích, theo tác giả cần phải thực hiện một số giải pháp điều chỉnh các quy định pháp luật có liên quan đến việc kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường nước, cũng như hoàn thiện các vấn đề triển khai áp dụng các quy định này trên thực tế. Cụ thể:

Thứ nhất, để đảm bảo tính khả thi trong việc áp dụng các quy định pháp luật bảo vệ môi trường vào hoạt động kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường nước, đồng thời để ngăn chặn được các hành vi lách luật gây ô nhiễm môi trường nước. Pháp luật cần phải quy định hướng dẫn cụ thể các tiêu chí để xác định sức chịu tải của sông cũng như các vấn đề về nội dung, thủ tục, yêu cầu cụ thể đối với hoạt động theo dõi, đánh giá chất lượng nước sông, trầm tích để đảm bảo việc áp dụng trên thực tế được khả thi, minh bạch, hiệu quả, rõ ràng. Bên cạnh đó, các vấn đề về điều tra, đánh giá trữ lượng, chất lượng, điều hòa nguồn nước tại các ao, hồ, sông, suối, kênh, rạch cũng cần phải có sự điều chỉnh rõ ràng để đảm bảo tính khả thi trong việc triển khai áp dụng trên thực tế. Để làm được điều này, đòi hỏi phải ban hành các quy định pháp luật hướng dẫn cụ thể, chi tiết về vấn đề này. Nội dung của văn bản hướng dẫn cần phải làm rõ được các vấn đề về trình tự, thủ tục thực hiện kiểm tra, đánh giá, căn cứ để thực hiện việc kiểm tra, tiêu chí để xác định việc đánh giá… Khi tất cả các vấn đề trên được quy định hướng dẫn cụ thể, chi tiết sẽ là cơ sở quan trọng để phục vụ hiệu quả cho hoạt động điều tra, đánh giá trữ lượng, chất lượng nguồn nước tại các ao, hồ, sông, suối, kênh, rạch trên thực tế. Mặc khác, cần phải nghiên cứu xây dựng, ban hành các quy chuẩn kỹ thuật môi trường để phục vụ kịp thời cho hoạt động đánh giá, kiểm soát và xử lý các vấn đề ô nhiễm môi trường nước.

Thứ hai, để tạo các cơ pháp lý đa dạng, vững chắc cho hoạt động kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường nước tại địa bàn đòi hỏi bên cạnh các văn bản pháp luật do Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng bàn hành thì Ủy ban nhân dân các cấp tại các địa phương cần phải tiếp tục nghiên cứu xây dựng, bàn hành thêm các văn bản điều chỉnh các vấn đề về kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường nước cho phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương trên cơ sở tuân thủ các quy định pháp luật do các chủ thể có thẩm quyền cấp trung ương ban hành. Cụ thể, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần phải tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật, trọng tâm là rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy định về cấp phép khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước, đánh giá khả năng tiếp nhận nước thải của nguồn nước, xử lý, trám lấp giếng không sử dụng, bảo vệ nước dưới đất, các định mức kinh tế - kỹ thuật, đơn giá... để đáp ứng yêu cầu quản lý trong tình mới tại địa phương. Xây dựng các quy định hướng dẫn xác định và công bố dòng chảy tối thiểu ở hạ lưu hồ chứa để quản lý, giám sát chặt chẽ hơn các hoạt động vận hành hồ chứa. Đồng thời, phải rà soát, tổng kết, đánh giá tình hình vận hành các hồ chứa nước, trên cơ sở đó điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện các quy trình vận hành liên hồ chứa nước nhằm nâng cao hiệu quả trong việc phối hợp vận hành điều tiết nguồn nước để đáp ứng yêu cầu về phòng, chống bão lũ vào mùa mưa, cấp nước mùa cạn và đảm bảo duy trì nguồn nước của các hồ chứa.

Thứ ba, để nâng cao hiệu quả trong hoạt động kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường nước trên địa bàn bên cạnh việc hoàn thiện các chính sách, pháp luật bảo vệ môi trường thì còn cần phải phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc quản lý, theo dõi, đánh giá, bảo vệ chất lượng môi trường nước. Các cơ quan quản lý Nhà nước tại địa phương cần phải tăng cường triển khai áp dụng thực hiện các quy định pháp luật vào hoạt động xây dựng hành lang bảo vệ nguồn nước, bảo vệ lòng, bờ bãi sông, phòng, chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước. Chú trọng công tác lập quy hoạch tài nguyên nước, tăng cường công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình hồ chứa thủy lợi. Phát huy hoạt động nghiên cứu xây dựng hệ thống giám sát việc vận hành các hồ chứa nước, vận hành duy trì dòng chảy tối thiểu của các hồ chứa bằng công nghệ hiện đại, tăng cường đôn đốc, hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra việc triển khai áp dụng các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường nước sông và các nguồn nước khác. Tổ chức chỉ đạo triển khai đồng bộ, vận hành hiệu quả mạng lưới quan trắc, theo dõi chặt chẽ diễn biến chất lượng môi trường nước để kịp thời ngăn chặn ô nhiễm, khắc phục suy thoái. Đồng thời, tăng cường cơ chế phối hợp, khắc phục các xung đột lợi ích cục bộ, tuyệt đối tránh tình trạng vì lợi ích của một chủ thể nào đó mà bất chấp thiệt hại về lợi ích môi trường chung của địa phương trên các lưu vực sông và các nguồn nước khác. Bên cạnh đó, cần phải tiếp tục đầu tư, đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện các công trình xử lý nước thải, chất thải để phục vụ cho hoạt động tiếp nhận, xử lý chất thải trên địa bàn nhằm hạn chế được tình trạng phát thải bừa bãi vào môi trường nước tại các sông, ao, hồ, kênh, mương, rạch… như hiện nay. Công tác xây dựng quy hoạch hồ chứa nước, các công trình hạ tầng đô thị phải được tính toán khoa học, phù hợp với hiện trạng và sức chịu tải của các lưu vực sông và các nguồn nước khác tại địa bàn trên cơ sở đồng bộ, thống nhất.

Thứ tư, cần tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục vận động người dân trên địa bàn về việc tuân thủ và thực hiện các yêu cầu về công tác bảo vệ môi trường nước tại các nguồn khác nhau. Hoạt động tuyên truyền sẽ giúp người dân nhận thức được vai trò và tầm quan trọng trong hoạt động bảo vệ, kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường nước, khi thay đổi được nhận thức sẽ giúp người dân thay đổi được hành vi của mình theo chiều hướng tích cực trên cơ sở tuân thủ quy định pháp luật. Để công tác tuyên truyền giáo dục được hiệu quả đòi hỏi các chủ thể thực hiện phải tích cực thường xuyên đổi mới phương thức tạo sự mới lạ, phải sử dụng các công cụ có tính chất đại chúng cao để phạm vi tuyên truyền được mở rộng. Công tác tuyên truyền phải được thực hiện trên cơ sở đảm bảo bởi các quy định pháp luật nhằm tránh tình trạng hình thức, sáo rỗng. Đồng thời, phải tăng cường áp dụng các hình thức ưu đãi khác nhau để thu hút, tạo động lực thúc đẩy các chủ thể tích cực tuân thủ và thực hiện đúng theo các quy định pháp luật về vấn đề kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường nước trên địa bàn.

Tóm lại, để công tác áp dụng pháp luật bảo vệ môi trường trong hoạt động kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường nước được hiệu quả đòi hỏi chúng ta không chỉ hoàn thiện trong các quy định pháp luật, mà cần phải khắc phục được những vấn đề còn tồn đọng, hạn chế trong việc triển khai áp dụng các quy định pháp luật để từ đó mang lại hiệu quả trong công tác kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường nước.

ThS. Trần Linh Huân

Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh




[1] Tại Bến Tre, theo điều tra của các cơ quan quản lý chuyên môn, lĩnh vực chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy cầm những năm gần đây phát triển mạnh, nhưng hiện chỉ có khoảng 40% số hộ chăn nuôi lợn, bò có đầu tư xây dựng hệ thống xử lý chất thải bằng hầm, túi biogaz, nhưng trong đó chỉ có khoảng 20% đạt tiêu chuẩn môi trường, số còn lại xả trực tiếp ra sông, rạch làm ảnh hưởng lớn đến đời sống người dân trong khu vực, nhất là ô nhiễm do nuôi lợn trên địa bàn huyện Mỏ Cày, nuôi bò và thủy cầm trên địa bàn huyện Ba Tri (Xem thêm tại: Lê Quang Nhung, Giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường ở Bến Tre, http://www.nhandan.com. vn/khoahoc /item/14725002-.html, truy cập ngày 24/12/2018).

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.
Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu đồng tình, nhất trí cao tại phiên họp thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng pháp luật do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 11/4/2025. Đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ tịch Hội đồng thẩm định chủ trì phiên họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm