Thứ năm 03/07/2025 13:37
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bàn về khái niệm người tiêu dùng trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023

Bài viết tập trung nghiên cứu về cách quy định khái niệm người tiêu dùng theo pháp luật thế giới, từ đó, đưa ra những đánh giá về khái niệm người tiêu dùng theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023.

1. Quan niệm về người tiêu dùng theo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới

Người tiêu dùng (consumer) là một thuật ngữ có phạm vi mô tả khá rộng. Dưới góc độ kinh tế, theo Từ điển Kinh tế học hiện đại thì người tiêu dùng được định nghĩa như sau: “Người tiêu dùng là bất cứ đơn vị kinh tế nào có nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng…, thông thường, người tiêu dùng được coi là một cá nhân nhưng trên thực tế, người tiêu dùng có thể là cơ quan, cá nhân và nhóm cá nhân. Trong trường hợp cuối cùng, điều đáng lưu ý là, để có quyết định, đơn vị tiêu dùng là hộ gia đình chứ không phải là cá nhân”[1].

Tuy nhiên, khái niệm người tiêu dùng chỉ xuất hiện và là đối tượng được bảo vệ khi lĩnh vực pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ra đời. Quan niệm về người tiêu dùng ở mỗi quốc gia lại có cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau, song, nhìn chung, các quốc gia đều chủ yếu xây dựng định nghĩa này dựa trên ba yếu tố: (i) Tư cách chủ thể; (ii) Căn cứ phát sinh giao dịch tiêu dùng; (iii) Mục đích của giao dịch tiêu dùng.

1.1. Về tư cách chủ thể

Hiện nay, quan điểm về tư cách chủ thể của người tiêu dùng theo pháp luật của các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đang được chia thành hai xu hướng:

Xu hướng thứ nhất, người tiêu dùng có thể là cá nhân hoặc tổ chức: Điển hình cho xu hướng này có thể kể tới pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Đài Loan, Ấn Độ, Hàn Quốc… Theo đó, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Đài Loan năm 1994 (bổ sung năm 2005) ghi nhận, người tiêu dùng là người tham gia vào các giao dịch, sử dụng hàng hoá hoặc dịch vụ vì mục đích tiêu dùng. Quy định này không phân biệt người tiêu dùng là thể nhân hay pháp nhân. Hay tại Điều 2 Luật Khung về người tiêu dùng của Hàn Quốc quy định, người tiêu dùng là những ai sử dụng hàng hóa, dịch vụ[2]… Vậy, với cách sử dụng thuật ngữ một cách chung chung “là những ai”, có thể hiểu, pháp luật Hàn Quốc không hạn chế người tiêu dùng chỉ là cá nhân mà có thể bao gồm cả pháp nhân.

Xu hướng thứ hai, người tiêu dùng chỉ là cá nhân: Nhiều nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Canada, nhiều quốc gia thuộc Liên minh châu Âu hay một số nước châu Á như Singapore, Philippines… cho rằng, người tiêu dùng chỉ có thể là thể nhân (cá nhân). Chẳng hạn, tại Điều 2 Chỉ thị số 1999/44/EC ngày 25/5/1999 của Nghị viện châu Âu và Hội đồng châu Âu về mua bán hàng hóa tiêu dùng và các bảo đảm có liên quan (Chỉ thị số 1999/44/EC) đã định nghĩa về người tiêu dùng như sau: “Người tiêu dùng được xác định là bất kỳ cá nhân nào thực hiện việc mua hàng theo hợp đồng được quy định bởi Chỉ thị này, thực hiện vì mục tiêu không liên quan đến thương mại, kinh doanh hay nghề nghiệp”[3]. Quy định này đã được các nước thành viên Liên minh châu Âu kế thừa và ghi nhận trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của mình. Hay một ví dụ khác điển hình cho xu hướng này tại châu Á, theo quy định tại Điều 2 Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2003 của Singapore (sửa đổi, bổ sung năm 2009), người tiêu dùng được định nghĩa như sau: “Người tiêu dùng là cá nhân nhận hoặc có quyền nhận hàng hóa và dịch vụ từ người cung cấp hoặc có nghĩa vụ thanh toán cho người cung cấp đối với hàng hóa, dịch vụ mình đã mua tặng cho cá nhân khác và các hoạt động tiêu dùng đó không nhằm mục đích kinh doanh”[4]. Có thể thấy, cách quy định này thể hiện rằng, pháp luật chỉ hướng tới bảo vệ các cá nhân, với tư cách là bên yếu thế trong mối quan hệ với tổ chức, cá nhân kinh doanh. Xét mối quan hệ giữa một bên là tổ chức với một bên là các tổ chức, cá nhân kinh doanh thì khó có thể cho rằng, tổ chức cũng là bên yếu thế bởi các tổ chức thường có nhiều nguồn lực (cả về nhân lực lẫn nguồn lực tài chính) và có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Do đó, so với các cá nhân thì tổ chức có vị thế và điều kiện tốt hơn, bởi tổ chức không yếu thế về mặt thông tin, hiểu biết, khả năng đàm phán hay khả năng tài chính để được bảo vệ như các cá nhân đơn lẻ. Như vậy, việc coi tổ chức là người tiêu dùng có thể dẫn đến những trường hợp mà mối quan hệ giữa các chủ thể hoàn toàn bình đẳng nhưng vẫn có sự can thiệp và bảo vệ của pháp luật, từ đó dẫn đến thiệt hại cho bên tổ chức, cá nhân kinh doanh, mặc dù họ không lợi dụng sự yếu thế của người mua. Có thể cho rằng, đây là lý do giải thích cho việc phần lớn các quốc gia trên thế giới đều quy định người tiêu dùng chỉ là cá nhân.

1.2. Về căn cứ phát sinh giao dịch tiêu dùng

Theo pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của các quốc gia trên thế giới, hiện nay, có ba cách thức để xác lập nên quan hệ tiêu dùng, cụ thể:

Thứ nhất, quan hệ tiêu dùng chỉ được xác lập khi người tiêu dùng trực tiếp có hợp đồng với tổ chức, cá nhân kinh doanh. Nói cách khác, người tiêu dùng không bao gồm người sử dụng, thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ mà không trực tiếp mua hàng hóa, dịch vụ từ tổ chức, cá nhân kinh doanh. Điển hình cho cách tiếp cận này là Chỉ thị số 1999/44/EC. Có thể nói, cách tiếp cận này đã làm hạn chế phạm vi những chủ thể lẽ ra nên được bảo vệ theo các quy định của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, trong khi trên thực tế, quyền lợi của những người thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ từ người khác thông qua quan hệ tặng cho, thừa kế… bị xâm phạm khá nhiều và nếu pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không bảo vệ họ thì những chủ thể này khó có cơ hội yêu cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh bồi thường cho mình khi có thiệt hại xảy ra. Điều này khiến cho mục đích của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng chưa thực sự được bảo đảm.

Thứ hai, khái niệm người tiêu dùng được tiếp cận ở phạm vi rộng hơn cách tiếp cận thứ nhất khi bao gồm cả người trực tiếp mua hàng hóa, dịch vụ và người sử dụng, thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ đó. Hiện nay, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của nhiều nước trên thế giới đang tiếp cận theo cách này khi quy định về khái niệm người tiêu dùng. Có thể nói, cách tiếp cận này toàn diện hơn, đồng thời, góp phần đề cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hơn khi họ phải chịu trách nhiệm về sản phẩm của mình với bất kỳ ai sử dụng hàng hoá, dịch vụ của mình.

Thứ ba, người tiêu dùng bao gồm cả những người không trực tiếp mua hoặc trực tiếp sử dụng hàng hóa, dịch vụ nhưng vẫn chịu ảnh hưởng bởi hành vi quấy rối của tổ chức, cá nhân kinh doanh. Cách tiếp cận này khá đặc biệt và được thể hiện rất rõ trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Thái Lan, theo đó, người tiêu dùng bao gồm cả người được chào mua hàng hóa, dịch vụ từ một người kinh doanh[5]. Nói cách khác, đây chính là những người tiêu dùng trong tương lai, hay còn gọi là người tiêu dùng tiềm năng. Việc quy định khách hàng tiềm năng cũng là người tiêu dùng là một quy định khá đặc biệt hiện nay khi cách thức chào hàng của nhiều tổ chức, cá nhân kinh doanh đã khiến cho rất nhiều người cảm thấy bản thân đang bị quấy rối và cần được bảo vệ.

1.3. Về mục đích sử dụng hàng hóa, dịch vụ

Hiện nay, đa số các quốc gia đều không chấp nhận các chủ thể thực hiện các giao dịch vì mục đích kinh doanh hay mục đích nghề nghiệp là người tiêu dùng, mà đều cho rằng, cá nhân, tổ chức chỉ được coi là người tiêu dùng khi họ sử dụng hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích tiêu dùng, sinh hoạt. Như vậy, tất cả các hoạt động nhằm mục đích kinh doanh, thương mại đều bị loại bỏ ra khỏi đối tượng xem xét của hành vi tiêu dùng. Điều này là hoàn toàn hợp lý bởi hành vi mua, bán với mục đích thương mại thì sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự hoặc pháp luật thương mại.

2. Khái niệm người tiêu dùng theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023

So với nhiều nước trên thế giới, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam ra đời khá muộn và khái niệm pháp lý về người tiêu dùng lần đầu tiên được đề cập trong Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999. Sau đó, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 được ban hành thay thế Pháp lệnh, trong đó có nhiều nội dung đã được sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên, khái niệm về người tiêu dùng vẫn được kế thừa như quy định trong Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999. Theo đó, khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy định như sau: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”. Như vậy, khi xem xét khái niệm này, có thể thấy, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 cũng có cách quy định gần giống với Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của nhiều nước trên thế giới khi cũng dựa vào ba yếu tố: (i) Tư cách chủ thể của giao dịch; (ii) Căn cứ phát sinh giao dịch; (iii) Mục đích của giao dịch.

Tuy nhiên, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV thông qua ngày 20/6/2023, chính thức có hiệu lực vào ngày 01/7/2024 đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung nhằm bảo đảm tính ổn định cũng như tăng cường bảo vệ người tiêu dùng, theo đó, một số thuật ngữ được giải thích trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 đã được thay đổi, như khái niệm người tiêu dùng - khái niệm cốt lõi của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, giúp xác định đối tượng sẽ được bảo vệ của đạo luật này.

Khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 đã định nghĩa: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cho mục đích sinh hoạt, tiêu dùng của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức và không vì mục đích thương mại”. Có thể thấy, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 vẫn xác định người tiêu dùng dựa trên ba yếu tố và quy định trên có những điểm kế thừa, đồng thời có những điểm mới so với Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010. Cụ thể:

2.1. Về tư cách chủ thể

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 vẫn xác định người tiêu dùng có thể là cá nhân, gia đình hoặc tổ chức giống quy định tại Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, đồng thời, bổ sung một chủ thể là cơ quan. Việc mở rộng chủ thể có thể được coi là người tiêu dùng nhằm bảo đảm tất cả các đối tượng tiêu dùng đều được pháp luật bảo vệ chứ không chỉ riêng tổ chức, cá nhân tiêu dùng. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, tổ chức gồm doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước, hiệp hội ngành nghề, tổ chức xã hội, đoàn thể… Do đó, nội hàm của từ “tổ chức” đã bao gồm cơ quan nên việc bổ sung chủ thể là cơ quan vào định nghĩa người tiêu dùng là không cần thiết.

Việc Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 quy định người tiêu dùng bao gồm cá nhân, gia đình, cơ quan và tổ chức như trên là điểm khác biệt so với pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của nhiều nước trên thế giới. Bởi, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, đa phần các nước có nền kinh tế phát triển và kinh nghiệm lâu năm trong công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đều quy định khái niệm người tiêu dùng là cá nhân, không bao gồm tổ chức. Điều này xuất phát từ quan điểm cho rằng, tổ chức có vị thế cân bằng so với bên tổ chức, cá nhân kinh doanh. Ngược lại, cá nhân chịu sự yếu thế về mọi mặt như yếu thế về địa vị pháp lý, tài chính, kiến thức, khả năng đàm phán… Điều này đã được kiểm chứng bởi lý luận cũng như thực tiễn trong các mối quan hệ tiêu dùng từ trước tới nay. Do đó, trong suốt 13 năm thi hành Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, một số ý kiến cho rằng, việc bảo vệ người tiêu dùng là tổ chức đã làm mất đi ý nghĩa của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng như lãng phí nguồn lực cho chính sách bảo vệ người tiêu dùng. Tuy nhiên, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 vẫn giữ nguyên quan điểm này khi cho rằng, tổ chức vẫn là đối tượng cần được bảo vệ khi tham gia vào quan hệ tiêu dùng.

2.2. Về căn cứ phát sinh quan hệ tiêu dùng

Đây là cơ sở quan trọng để xác định những chủ thể nêu trên có trở thành người tiêu dùng được bảo vệ theo quy định của pháp luật hay không. Kế thừa Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 vẫn xác định người tiêu dùng là người mua, sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, trong định nghĩa này lại sử dụng dấu phẩy giữa hai từ “mua” và “sử dụng”, điều này làm đặt ra một câu hỏi là dấu phẩy ở đây mang nghĩa là “và” (thể hiện ý nghĩa đồng thời) hay là “hoặc” (thể hiện ý nghĩa lựa chọn)? Tức là, để một chủ thể được coi là người tiêu dùng thì chủ thể đó phải vừa là người mua (trực tiếp có quan hệ hợp đồng với tổ chức, cá nhân kinh doanh), đồng thời, vừa là người trực tiếp sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đó. Hay pháp luật thừa nhận chủ thể chỉ cần là người mua (không sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ) hoặc chỉ cần là người sử dụng (không trực tiếp có quan hệ hợp đồng với tổ chức, cá nhân kinh doanh) đều được coi là người tiêu dùng? Có thể nói, cách định nghĩa này chưa thực sự rõ ràng và có thể trở thành tiền đề gây tranh luận trong các vụ việc tranh chấp xảy ra giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh, gây khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong xử lý vụ việc.

Tuy nhiên, trên thực tế, cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đang áp dụng cách hiểu người tiêu dùng bao gồm cả ba chủ thể sau: (i) Người trực tiếp có quan hệ hợp đồng với tổ chức, cá nhân kinh doanh; (ii) Người trực tiếp sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh cung cấp; (iii) Người vừa trực tiếp có quan hệ hợp đồng với tổ chức, cá nhân kinh doanh, đồng thời vừa là người sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đó. Cách quy định này cũng tương đồng với đa số các quốc gia trên thế giới.

So sánh với Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, quy định này vẫn có điểm khác biệt ở chỗ, chủ thể có thể là người tiêu dùng khi mua, sử dụng “sản phẩm” của tổ chức, cá nhân kinh doanh. Theo đó, sản phẩm được hiểu là những thứ chưa được đưa vào lưu thông trên thị trường để trao đổi, mua bán, do đó chưa trở thành hàng hóa. Tuy nhiên, trên thực tế, có những sản phẩm mới chỉ được sản xuất, chưa đưa vào lưu thông nhưng vẫn có khả năng gây thiệt hại tính mạng, sức khỏe hay tài sản cho người sử dụng. Chẳng hạn như, người sử dụng sản phẩm đang thử nghiệm mà phát hiện sản phẩm đó có khuyết tật thì tổ chức, cá nhân kinh doanh vẫn phải thu hồi và bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra (nếu có) theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023. Qua đó, có thể thấy, cách quy định mới này mang tính chất bao quát và bảo vệ được người tiêu dùng một cách triệt để hơn so với quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010.

2.3. Về mục đích sử dụng hàng hóa, dịch vụ

Kế thừa quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 xác định chủ thể chỉ có thể là người tiêu dùng khi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích sinh hoạt, tiêu dùng của cá nhân, gia đình, tổ chức, đồng thời nhấn mạnh “và không vì mục đích thương mại” để loại trừ những giao dịch nhằm đạt được cả hai mục đích là vừa tiêu dùng, vừa kinh doanh kiếm lời.

Tuy nhiên, cần làm rõ yếu tố “mục đích sinh hoạt, tiêu dùng của cá nhân, gia đình, tổ chức” là gì, bởi khái niệm này không được giải thích trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 và Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày 27/10/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, cũng như trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023. Có thể nói, mục đích sinh hoạt, tiêu dùng của cá nhân, gia đình có thể dễ dàng xác định, bởi để được coi là người tiêu dùng thì người mua, sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ phải vì mục đích sinh hoạt, tiêu dùng thường ngày chứ không phải nhằm mục đích sinh lời như mua để bán lại. Ngược lại, mục đích sinh hoạt, tiêu dùng của tổ chức lại là vấn đề còn gây nhiều quan điểm khác nhau. Trong đó, nhiều ý kiến cho rằng, việc xác định một tổ chức mua một loại hàng hóa hay sử dụng một loại dịch vụ vì mục đích tiêu dùng hay mục đích thương mại còn gặp nhiều khó khăn. Như vậy, có thể nói, việc pháp luật không có quy định giải thích rõ ràng về yếu tố mục đích sinh hoạt, tiêu dùng của từng chủ thể và đặc biệt là “mục đích sinh hoạt, tiêu dùng của tổ chức” là một điểm bất cập, dẫn đến chưa có sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật trên thực tế.

3. Một số kiến nghị

Thứ nhất, với những phân tích ở phần trên, theo tác giả, chỉ nên quy định người tiêu dùng là cá nhân giống với cách quy định của đa số các quốc gia trên thế giới.

Thứ hai, mặc dù Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 đã có các quy định để bảo vệ quyền lợi của những người chưa mua hay sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh (người tiêu dùng tiềm năng) ngay từ giai đoạn trước khi thực hiện giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh, tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 thì những chủ thể này lại chưa được coi là người tiêu dùng. Trong khi đó, trên thực tế, việc những người tiêu dùng tiềm năng này bị quấy rối thông qua các hành vi như tiếp thị, quảng cáo… của tổ chức, cá nhân kinh doanh đã và đang diễn ra phổ biến. Do đó, để bảo đảm phát huy vai trò của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng một cách tối đa, tác giả đề xuất nên bổ sung chủ thể là người tiêu dùng tiềm năng vào quy định khái niệm người tiêu dùng.

Thứ ba, về căn cứ phát sinh quan hệ tiêu dùng, nên xác định rõ chủ thể được coi là người tiêu dùng khi người đó mua hoặc sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Tức là, thay vì sử dụng dấu phẩy giữa hai động từ “mua” và “sử dụng” như trong khái niệm người tiêu dùng hiện tại thì nên sử dụng từ “hoặc” để giúp phân định rõ chủ thể được coi là người tiêu dùng là người mua hoặc người sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Điều này sẽ giúp tránh được những quan điểm khác nhau khi áp dụng pháp luật để xử lý các vụ việc liên quan tới lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng trên thực tiễn.

Thứ tư, để tránh việc có những cách hiểu khác nhau về định nghĩa người tiêu dùng, cần có quy định hướng dẫn chi tiết như thế nào là mục đích sinh hoạt, tiêu dùng của từng chủ thể cá nhân, gia đình và tổ chức. Trong đó, đặc biệt chú trọng giải thích mục đích sinh hoạt, tiêu dùng của tổ chức, bởi như đã phân tích ở trên, đây là yếu tố khá khó để có thể xác định và hiện vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều xung quanh vấn đề này./.

ThS. Nguyễn Thị Việt Hà

Khoa Pháp luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội

[1]. David D. Pearce, Từ điển Kinh tế học hiện đại (1999), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 193.

[2]. https://elaw.klri.re.kr/eng_service/lawView.do?hseq=45955&lang=ENG.

[3]. https://eur-lex.europa.eu/legal-content/EN/TXT/?uri=celex%3A31999L0044.

[4]. https://sso.agc.gov.sg/Act/CPFTA2003.

[5]. https://unilaw.vn/binh-luan-an/nguoi-tieu-dung-luat-bao-ve-nguoi-tieu-dung.html.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 401), tháng 3/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Trong bối cảnh công nghệ số phát triển mạnh mẽ, việc bảo vệ dữ liệu cá nhân nói chung, đặc biệt là dữ liệu của trẻ em - đối tượng dễ bị tổn thương - trở thành vấn đề cấp thiết. Thời gian qua, mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em nhưng thực tế vẫn còn nhiều hạn chế, thách thức cần giải quyết. Bài viết tập trung phân tích khung pháp lý hiện hành của Việt Nam về bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em, đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế, đồng thời, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nhằm bảo đảm quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ em trong môi trường số.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Thực tiễn cho thấy, việc thể chế hóa chế định quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm Thi hành Hiến pháp năm 2013 đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng cũng còn hạn chế, khó khăn nhất định. Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân cần thực hiện đúng, đầy đủ trách nhiệm theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và thể chể hóa các chủ trương, chính sách mới của Đảng về đổi mới tư duy xây dựng, thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Bài viết phân tích các quy định về giới hạn và điều kiện áp dụng hình phạt trong luật nhân quyền quốc tế, qua đó, chứng minh luật nhân quyền quốc tế đặt ra những giới hạn và điều kiện về bản chất, mức độ, đối tượng, thủ tục áp dụng hình phạt trong tố tụng hình sự nhằm ngăn chặn sự lạm quyền trong việc phòng, chống tội phạm và thúc đẩy tính nhân đạo của tư pháp hình sự. Đồng thời, bài viết cũng khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm của Cộng hòa liên bang Đức, Na Uy, Canada và Nam Phi, qua đó, gợi ý một số cải cách để Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc góp phần hoàn thiện pháp luật về áp dụng hình phạt tiệm cận hơn với các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế về vấn đề này.
Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Xử phạt vi phạm hành chính là một trong những công cụ hữu hiệu để Nhà nước đấu tranh và phòng ngừa vi phạm hành chính. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính đang được sửa đổi và dự kiến thông qua tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV với nhiều điểm mới, đặc biệt là các quy định liên quan đến thủ tục xử phạt vi phạm hành chính. Bài viết phân tích, luận giải một số vấn đề như điều kiện xử phạt hành chính không lập biên bản, quyền giải trình đối với trường hợp xử phạt theo thủ tục không lập biên bản, thời hạn chuyển biên bản vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt, về người chứng kiến ký biên bản vi phạm hành chính và kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy về định thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Bài viết tập trung phân tích những vướng mắc, bất cập của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2017, 2020, 2022 (Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012) về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan.
Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Theo quy định pháp luật, thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc về Tòa án nhân dân cấp huyện. Để áp dụng biện pháp này, các cơ quan hành chính phải lập hồ sơ đề nghị để Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định cho phép thực hiện. Bài viết nghiên cứu, phân tích về thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đồng thời, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước.
Bất cập trong nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và đề xuất, kiến nghị

Bất cập trong nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và đề xuất, kiến nghị

Bài viết chỉ ra những bất cập về nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và từ đó, đề xuất kiến nghị giúp khắc phục bất cập trong công tác xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức.
Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.

Theo dõi chúng tôi trên:

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm