Thứ sáu 20/06/2025 17:35
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Chức năng quản lý văn hóa, giáo dục của Nhà nước Việt Nam giai đoạn hội nhập quốc tế

Tóm tắt: Chức năng quản lý văn hóa, giáo dục là chức năng rất quan trọng, có ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến hầu hết các hoạt động của Nhà nước Việt Nam và nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống văn hóa, xã hội. Mặt khác, văn hóa, giáo dục luôn là lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp, vì vậy, hình thức và phương pháp thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục trong giai đoạn hội nhập quốc tế luôn cần phải có sự xem xét để điều chỉnh kịp thời.

Abstract: Cultural, educational management function is a very important function which directly affects and impacts on most of the activities of the Vietnamese State and different fields of the life, culture and society. On the other hand, the culture, education have been always sensitive and complicated fields. Therefore, the form and method of implementation of management function of culture, education in the phase of international integration, should always be reviewed for timely adjustment.

Trong giai đoạn bùng nổ của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, dưới tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ của các nền văn hóa, giáo dục đến từ các quốc gia khác nhau, chức năng quản lý văn hóa, giáo dục của Việt Nam đang gặp những khó khăn, thách thức. Để quản lý nền văn hóa, giáo dục của Việt Nam phù hợp và thích ứng với các biến động của xu thế hội nhập, đòi hỏi chức năng quản lý văn hóa, giáo dục phải đổi mới về hình thức và cả phương pháp thực hiện. Tuy nhiên, hình thức và phương pháp thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục của Nhà nước trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay như thế nào, hiệu quả mang lại trên thực tế ra sao là những vấn đề rất cần có sự nghiên cứu, tìm hiểu. Trên cơ sở này, tìm ra các giải pháp nhằm hoàn thiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục của Nhà nước trong giai đoạn hội nhập quốc tế.

1. Các hình thức chủ yếu thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục của Nhà nước Việt Nam giai đoạn hội nhập quốc tế

Hình thức thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục của Nhà nước trong giai đoạn hội nhập quốc tế bao gồm hai nội dung chính đó là: Hình thức mang tính pháp lý và hình thức không mang tính pháp lý.

1.1. Về hình thức pháp lý

Thứ nhất, Nhà nước xây dựng chính sách pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục trong giai đoạn hội nhập quốc tế

Về cơ bản, đây là cả một quá trình hoạt động rất rộng bao gồm tất cả các khâu từ việc nghiên cứu, đánh giá các nhu cầu phát triển của văn hóa, giáo dục, thực trạng của văn hóa, giáo dục, xác định các giải pháp, chủ trương, chính sách, cơ chế tổ chức hoạt động của các thiết chế văn hóa, giáo dục đến việc xây dựng hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ liên quan đến văn hóa, giáo dục. Tất cả các công việc trên sẽ được Nhà nước tổng hợp lại, từ đó mới có thể ban hành ra hệ thống văn bản pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục. Tuy nhiên, trong giai đoạn hội nhập quốc tế, việc ban hành chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục còn bị chi phối và ảnh hưởng bởi các yếu tố hội nhập. Các nền văn hóa, giáo dục từ nước ngoài được du nhập vào Việt Nam, đã tác động và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống văn hóa, tinh thần và hệ thống giáo dục, đào tạo của Việt Nam. Vì vậy, trong giai đoạn hội nhập quốc tế, hệ thống pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục luôn được xây dựng theo hướng sẵn sàng chủ động đối phó với những tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế. Đồng thời, phát huy, giữ gìn bản sắc, truyền thống văn hóa lâu đời và bảo vệ hệ thống giáo dục đào tạo của Việt Nam.

Thứ hai, Nhà nước tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục trong giai đoạn hội nhập quốc tế

Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục là hoạt động tổ chức mang tính bắt buộc của Nhà nước. Bên cạnh Nhà nước là người trực tiếp thực hiện, còn có sự trợ giúp của cả xã hội nhằm đưa các quy phạm pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục vào thực tiễn đời sống xã hội. Các công việc chủ yếu của nội dung hoạt động tổ chức này gồm: Tuyên truyền, phổ biến, giải thích, giáo dục chính sách, pháp luật về văn hóa, giáo dục; tạo mọi điều kiện cần thiết để thi hành chính sách, pháp luật về văn hóa, giáo dục[1]...

Thứ ba, Nhà nước bảo vệ chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục trong giai đoạn hội nhập quốc tế

Hoạt động này bao gồm hai nội dung chính, đó là kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục và công tác xử lý các vi phạm chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục. Đối với từng công tác đều có những yêu cầu và nhiệm vụ riêng: - Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục và bảo vệ chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục là những hình thức hoạt động đặc trưng của Nhà nước. Hoạt động này được tiến hành nhằm đảm bảo cho việc thực hiện chính sách, pháp luật về văn hóa, giáo dục được đúng với tinh thần và mục tiêu do Nhà nước đề ra. Mục đích của hoạt động này là nhằm phát hiện nhanh chóng các sai lầm, thiếu sót để kịp thời khắc phục, xử lý[2]. - Công tác xử lý các vi phạm chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục cũng đang được tiến hành khẩn trương, liên tục. Trên thực tế, đã phát hiện nhiều vi phạm như hành vi ăn cắp bản quyền tác giả trong nhiều lĩnh vực âm nhạc, điện ảnh, nghệ thuật… Về cơ bản, chúng ta đã kịp thời phát hiện, ngăn chặn và áp dụng những chế tài xử lý thích đáng nhằm xử lý những hành vi này. Mặc dù vậy, trên thực tế, tình trạng vi phạm pháp luật vẫn có xu hướng gia tăng.

Thứ tư, Nhà nước tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục trong giai đoạn hội nhập quốc tế

Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng thì văn hóa, giáo dục là hai lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp. Chúng thường xuyên biến đổi về nội dung và hình thức trước sự tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ từ bên ngoài. Ngoài ra, do nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội thì việc điều chỉnh chính sách pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục lại càng cấp bách hơn trước. Trước tình hình đó, Nhà nước luôn có sự thay đổi nội dung, hình thức và phương pháp quản lý nhà nước đối với văn hóa, giáo dục. Đối với công tác tổ chức, quản lý, xây dựng và ban hành các chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục thì Nhà nước luôn là chủ thể chủ yếu. Vì thế, Nhà nước phải có trách nhiệm thường xuyên hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục để điều chỉnh các quan hệ mới phát sinh liên quan đến văn hóa, giáo dục.

1.2. Về hình thức không mang tính pháp lý

Bên cạnh việc áp dụng chính thức các hình thức pháp lý thì Nhà nước cũng luôn tiến hành song song các hình thức không mang tính pháp lý khác. Các hình thức không mang tính pháp lý này bao gồm tổ chức hội thảo khoa học về văn hóa, giáo dục; hội nghị thi đua ngành văn hóa, giáo dục; hội nghị triển khai thực hiện chính sách, pháp luật về văn hóa, giáo dục; hay hội nghị tổng kết hoạt động các phong trào văn hóa, giáo dục… Nhìn chung, các hình thức này rất cần thiết để có thể nhanh chóng đưa các chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục vào đời sống và cũng có thể thông qua những buổi hội thảo hay phong trào này, từ đó, rút ra những sáng kiến kinh nghiệm quý giá, để có thể hoàn thiện hơn nữa hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục.

2. Các phương pháp chung thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục của Nhà nước Việt Nam giai đoạn hội nhập quốc tế

Các chức năng của Nhà nước được thực hiện thông qua các phương pháp hoạt động nhất định của bộ máy nhà nước[3]. Phương pháp thực hiện chức năng của Nhà nước là những biện pháp, cách thức mà Nhà nước tiến hành các hoạt động quản lý các lĩnh vực quan hệ xã hội. Phương pháp thực hiện chức năng do yêu cầu, mục tiêu chức năng của Nhà nước quyết định. Nói cách khác, tùy theo yêu cầu, mục tiêu, nội dung chức năng của Nhà nước mà có những cách thức thực hiện phù hợp. Trong lĩnh vực quản lý văn hóa, giáo dục, Nhà nước thường sử dụng phương pháp giáo dục - thuyết phục và phương pháp cưỡng chế. Hai phương pháp này luôn được Nhà nước sử dụng và kết hợp chặt chẽ với nhau.

2.1. Phương pháp giáo dục - thuyết phục

Trong thời đại thông tin, truyền thông phát triển rộng rãi và bao quát khắp nơi như hiện nay thì vấn đề giáo dục - thuyết phục ý thức, tư tưởng cho người dân là một vấn đề rất quan trọng đối với Nhà nước. Nhờ những phương tiện, thiết bị khoa học hiện đại trên, Nhà nước có thể dễ dàng giáo dục, quản lý xã hội để thông qua đó, đảm bảo chặt chẽ, hiệu quả tính giáo dục và tính thuyết phục được người dân. Phương pháp giáo dục - thuyết phục luôn được xem là phương pháp chủ đạo của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Lĩnh vực văn hóa, giáo dục là các lĩnh vực rất nhạy cảm. So với các lĩnh vực khác của xã hội thì hoạt động văn hóa, giáo dục luôn có những điểm đặc thù riêng, vì nó liên quan trực tiếp đến đời sống văn hóa, tinh thần, nhân cách cao đẹp hay lối sống của từng con người. Tuy nhiên, trong thời đại hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay thì vấn đề này càng trở nên khó quản lý và điều chỉnh. Vì thế, phương pháp giáo dục - thuyết phục trong việc thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục của Nhà nước cũng phải tính đến đặc điểm đó, để đạt được hiệu quả và mục đích đề ra. Ngoài ra, phương pháp giáo dục - thuyết phục cần phải được triển khai ở tất cả các hoạt động quản lý văn hóa, giáo dục, từ khâu hình thành cơ chế, chính sách, ban hành luật pháp đến tổ chức triển khai thi hành và kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm. Song song với việc giáo dục ý thức chính trị, chính sách, pháp luật thì công việc giáo dục đạo đức cũng cần phải được coi là giáo dục có tính nền tảng vô cùng quan trọng và phải tiến hành thường xuyên, liên tục. Bởi, đạo đức là gốc, là nền tảng của từng con người nên việc giáo dục đạo đức ngay từ khi còn nhỏ sẽ khiến con người có ý thức nhận biết và tự giác hành xử theo các yêu cầu, chuẩn mực của pháp luật. Không giáo dục tốt về mặt đạo đức thì việc sử dụng các phương pháp để quản lý văn hóa, giáo dục cũng sẽ rất khó khăn khi triển khai.

2.2. Phương pháp cưỡng chế

Trong nhà nước dân chủ thì phương pháp cưỡng chế vốn không được xem là phương pháp đặc trưng. Tuy nhiên, hiện nay, do ảnh hưởng của hội nhập quốc tế nên xã hội Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng du nhập văn hóa lai căng, hay từ những sản phẩm độc hại cho tâm hồn và nhân cách con người hoặc những biểu hiện lạc hậu, bất cập, xa rời thực tế của hệ thống giáo dục đào tạo. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực quản lý văn hóa, giáo dục còn tồn tại khá nhiều chủ thể thường xuyên tìm cách vượt rào, trốn tránh sự quản lý của Nhà nước với âm mưu, thủ đoạn và cách thức tinh vi hơn trước. Bởi vậy, để có thể quản lý lĩnh vực văn hóa, giáo dục thì tùy từng trường hợp, Nhà nước sẽ phải sử dụng cả phương pháp cưỡng chế. Mặc dù vậy, Nhà nước và cả xã hội cùng cố gắng sử dụng sức mạnh của mình nhằm duy trì các hoạt động quản lý văn hóa, giáo dục sao cho các hoạt động này không vượt ra khỏi hành lang của cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước thì đó cũng có thể được quan niệm là sự cưỡng chế. Nói cách khác, cưỡng chế không nhất thiết phải là trừng trị, loại bỏ đối tượng. Đây thật sự là một cuộc “đấu tranh” đầy thử thách nhằm thiết lập, duy trì trật tự trên các lĩnh vực xã hội nói chung và hoạt động quản lý văn hóa, giáo dục nói riêng. Duy trì trật tự xã hội để cân bằng các xu hướng hoạt động và nhiều loại lợi ích khác nhau, đảm bảo lợi ích chung (lợi ích mà các cá nhân, nhóm xã hội chấp nhận) đó cũng chính là cưỡng chế của Nhà nước4. Một trong những đặc trưng của phương pháp cưỡng chế nhà nước đối với lĩnh vực quản lý văn hóa, giáo dục là thường xuyên quy định những hành vi nhất định bị cấm đoán. Đây là biểu hiện đặc trưng của việc sử dụng phương pháp cưỡng chế nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế tại Việt Nam hiện nay. Do sự tác động của hội nhập quốc tế và biến đổi của xã hội, phương pháp cưỡng chế cũng có sự thay đổi. Phương pháp cưỡng chế có thể áp dụng rộng rãi các hình thức chế tài “đánh” vào lợi ích vật chất của người vi phạm. Điều này thích hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường khi mà lợi ích kinh tế luôn được các chủ thể tham gia chú trọng. Đây cũng là sự mềm dẻo hơn trong việc quản lý văn hóa, giáo dục. Nhằm mục đích nâng cao hiệu quả công tác quản lý lĩnh vực văn hóa, giáo dục thì bên cạnh việc sử dụng chủ yếu phương pháp thuyết phục - giáo dục và phương pháp cưỡng chế, Nhà nước còn sử dụng thêm các phương pháp khác như: Phương pháp tổ chức trực tiếp, tham gia, can thiệp vào những hoạt động cụ thể nào đó để đảm bảo mục tiêu chung của Nhà nước. Nhà nước cũng có thể hỗ trợ trực tiếp, kích thích hay kiềm chế bằng các công cụ tài chính, tiền tệ để đảm bảo cho hoạt động nào đó được diễn ra bình thường nhằm đảm bảo ổn định nền kinh tế, xã hội[5]…

3. Một vài kiến nghị

Một trong những nhiệm vụ trước mắt và lâu dài về phát triển văn hóa, giáo dục chính là: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ; phát huy vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước”[6]. Tuy nhiên, để đạt được các mục tiêu trên thì hình thức và phương pháp thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục trong giai đoạn hội nhập quốc tế cần thiết phải được hoàn thiện theo hướng:

Thứ nhất, về hình thức thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục trong giai đoạn hội nhập quốc tế

Thực tế cho thấy, hình thức thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục của Nhà nước còn khá nhiều bất cập. Trước hết, hệ thống pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục của Việt Nam hiện nay, được hình thành và kế thừa từ các giai đoạn phát triển trước đây. Bởi vậy, phần lớn văn bản quy phạm pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục của Việt Nam hiện nay đã trở nên lỗi thời, lạc hậu và không phù hợp với sự phát triển của môi trường văn hóa, giáo dục trong giai đoạn hội nhập quốc tế. Mặt khác, việc sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục còn khá chậm chạp và chưa phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn xã hội. Chính vì vậy, để hình thức thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục có thể hoạt động hiệu quả hơn thì Nhà nước nên nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm xây dựng pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục từ các quốc gia có nền văn hóa, giáo dục và khoa học pháp lý tiên tiến, hiện đại. Trong đó, nên chú trọng nghiên cứu, tìm hiểu các quốc gia có điều kiện khá tương đồng với Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc, Sin-ga-po. Mặt khác, cần phải chú trọng việc nghiên cứu truyền thống, bản sắc văn hóa lâu đời tại Việt Nam, để từ đó có phương hướng tiếp tục bảo tồn, phát huy những di sản văn hóa quan trọng này. Trong suốt quá trình xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục cần có sự tham gia góp ý của các chuyên gia văn hóa, giáo dục và chuyên gia pháp lý trong và ngoài nước. Đối với dự thảo các văn bản pháp luật có quy mô lớn về quản lý văn hóa, giáo dục thì trước và trong suốt quá trình xây dựng, Nhà nước nên tổ chức trưng cầu dân ý để lấy ý kiến góp ý từ tất cả tầng lớp nhân dân. Có như vậy, hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý văn hóa, giáo dục của Việt Nam mới thực sự đổi mới và phù hợp với các điều kiện và hoàn cảnh của giai đoạn hội nhập quốc tế.

Thứ hai, về phương pháp thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục trong giai đoạn hội nhập quốc tế

Để có thể đạt hiệu quả tốt trong việc thực hiện chức năng quản lý văn hóa, giáo dục thì đòi hỏi Nhà nước phải kết hợp sử dụng hợp lý, khoa học giữa phương pháp giáo dục - thuyết phục và phương pháp cưỡng chế. Tuy nhiên, theo tác giả, sẽ là hiệu quả tốt hơn khi Nhà nước chú trọng khai thác sử dụng nhiều hơn phương pháp cưỡng chế. Theo đó, phương pháp cưỡng chế nên xây dựng theo hướng tăng cường mạnh mẽ chế tài xử lý các vi phạm trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục. Chúng ta có thể kết hợp các chế tài xử phạt kinh tế với chế tài hình sự để trừng trị nghiêm khắc những chủ thể cố tình vi phạm. Sở dĩ như vậy là vì không thể chỉ dựa vào việc động viên, thuyết phục hay sử dụng lợi ích để tác động đến các chủ thể cố tình chống đối, cản trở hoặc bất hợp tác với cơ quan nhà nước. Trên thực tế, tình trạng “nhờn” luật đang diễn ra khá phổ biến. Chính vì thế, cần phải nghiêm khắc trừng phạt các chủ thể vi phạm, để qua đó còn làm gương cho các chủ thể khác. Về lâu dài, khi ý thức tuân thủ pháp luật của người dân tốt hơn thì mới có thể giảm dần phương pháp này. Hiện nay, dưới tác động của hội nhập văn hóa, giáo dục và khi đời sống ngày càng được cải thiện thì các vấn đề văn hóa, giáo dục càng được đông đảo các tầng lớp nhân dân quan tâm. Bởi, đây đều là các nhu cầu cấp thiết của xã hội hiện đại. Vì thế, chức năng quản lý văn hóa, giáo dục của Nhà nước cũng cần có sự đổi mới về tư duy quản lý để kịp thời điều tiết nền văn hóa, giáo dục phát triển tiên tiến, hiện đại nhưng vẫn đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.

TS. Nguyễn Vinh Hưng

Đại học Quốc gia Hà Nội

Tài liệu tham khảo:

[1]. Nguyễn Vinh Hưng (2011), Chức năng văn hóa - giáo dục của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 28.

[2]. Nguyễn Vinh Hưng (2011), Chức năng văn hóa - giáo dục của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, sđd, tr. 29.

[3]. Nguyễn Văn Động (2010), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, tr. 44.

[4]. Nguyễn Văn Động (chủ biên), Chức năng văn hóa - giáo dục của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế, Đề tài khoa học cấp trường Đại học Luật Hà Nội năm 2008, tr. 88.

[5]. Nguyễn Vinh Hưng (2011), Chức năng văn hóa - giáo dục của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, sđd, tr. 32 - 33.

[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Hà Nội, tr. 21 - 22.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm