1. Khái quát về phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, tồn tại bốn phương thức giải quyết tranh chấp thương mại cơ bản: Thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại, tòa án. Trong số đó, ba phương thức giải quyết tranh chấp là thương lượng, hòa giải và trọng tài thương mại không mang ý chí quyền lực nhà nước.
Trong lĩnh vực thương mại, trọng tài trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp xuất phát từ hoạt động thương mại và để đáp ứng yêu cầu của giải quyết tranh chấp trong thương mại của thương nhân. Giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba, ban đầu chỉ dừng lại ở việc xem xét vụ việc và đưa ra khuyến nghị, ý kiến mang tính chất tham khảo. Về sau, để giải quyết tranh chấp dứt điểm, nhanh chóng thì các bên trao cho bên thứ ba quyền quyết định, đưa ra phán quyết về nội dung của tranh chấp. Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, trọng tài dần trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến và được pháp luật thừa nhận là một phương thức giải quyết tranh chấp trong thương mại.
Trong khoa học pháp lý, trọng tài được nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau, nhưng chủ yếu là trên hai phương diện: (i) Trọng tài là một thiết chế để giải quyết tranh chấp; (ii) Trọng tài là một phương thức để giải quyết tranh chấp[1].
Với vai trò là một phương thức giải quyết tranh chấp, trọng tài được biết đến với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba, là phương thức vừa thể hiện tính tự do thỏa thuận, ôn hòa như các hình thức thương lượng, hòa giải vừa thể hiện tính cưỡng chế bắt buộc. Do đó, đây là phương thức mang tính chất trung hòa. Điều này thể hiện ở cách tiếp cận khái niệm trọng tài của pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật quốc tế. Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL quy định: “Trọng tài nghĩa là mọi hình thức trọng tài có hoặc không có giám sát của một tổ chức trọng tài thường trực”[2]. Pháp luật Việt Nam cũng có cách tiếp cận tương tự khi khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định: Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật Trọng tài thương mại.
Với vai trò là một thiết chế để giải quyết tranh chấp thương mại, một cơ quan tồn tại độc lập với tòa án và các cơ quan nhà nước khác, được biểu hiện bằng sự tồn tại và hoạt động của trọng tài quy chế dưới dạng các trung tâm trọng tài, hiệp hội trọng tài. Nếu tiếp cận theo hướng này thì sẽ bỏ sót một hình thức trọng tài quan trọng là trọng tài vụ việc (trọng tài add hod). Do đó, cách tiếp cận này hiện nay không được đề cập đến nhiều bởi nó chỉ thiên về mặt hình thức không phản ánh đầy đủ bản chất của trọng tài[3].
Với phương thức trọng tài, người ta thấy được những ưu thế vượt trội so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác, đặc biệt là so sánh với giải quyết tranh chấp thương mại tại tòa án. So với tòa án, trọng tài có các ưu thế [4]:
Một là, trọng tài cung cấp cho các bên tham gia cơ hội tối ưu, linh hoạt để tự quyết định về cách thức giải quyết của mình mà không bị giới hạn bởi các quy định “đóng khung” như tham gia tố tụng tại tòa án. Trong quá trình này, các bên được tự do lựa chọn không chỉ cơ quan trọng tài mà còn bao gồm phương thức trọng tài và trọng tài viên, giúp đưa ra quyết định cuối cùng dựa trên ý định và điều kiện của họ, không phụ thuộc vào địa điểm đặt trụ sở hoặc cư trú.
Hai là, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp liên tục, tiết kiệm thời gian, bảo đảm tính mềm dẻo, nhanh chóng, linh hoạt cho các bên. Xuất phát từ quyền định đoạt của các bên tranh chấp mà hoạt động của trọng tài diễn ra liên tục, nhanh chóng hơn, tiết kiệm thời gian hơn. Đây là điều quan trọng mà tòa án khó có thể đáp ứng được, bởi thủ tục tố tụng của tòa án phải tuân theo trình tự, thủ tục luật định nên việc giải quyết tranh chấp luôn bị kéo dài. Thủ tục tố tụng của trọng tài đơn giản, thuận tiện nên làm cho việc giải quyết nhanh chóng. Đây là ưu điểm phù hợp với nhu cầu của các nhà kinh doanh khi thời gian và lợi nhuận là yếu tố quan trọng tác động đến quyết định của họ khi lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp; tranh chấp được giải quyết càng sớm thì hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ tiến triển một cách nhanh chóng, không bị đình trệ.
Ba là, trọng tài thương mại cung cấp một phương thức giải quyết tranh chấp riêng tư, giúp bảo vệ danh tiếng và bảo mật thông tin của các bên liên quan. Trọng tài góp phần vào việc củng cố và bảo vệ mối quan hệ hợp tác giữa các bên dài hạn. Sự riêng tư và uy tín được duy trì qua quy trình giải quyết linh hoạt và kín đáo, tạo điều kiện cho sự hợp tác và thiện chí kéo dài giữa các bên.
Bốn là, phán quyết trọng tài có tính chất chung thẩm, tức là có hiệu lực cuối cùng, trong khi tòa án bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, có thể có thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm… khiến vụ kiện kéo dài. Ưu điểm này đặc biệt quan trọng đối với hoạt động đầu tư, thương mại. Sau khi xét xử, phán quyết trọng tài có thể được thực hiện ngay, đáp ứng yêu cầu khôi phục nhanh chóng những tổn thất trong kinh doanh thương mại.
Năm là, hoạt động trọng tài có sự hỗ trợ của tòa án như áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, hủy quyết định trọng tài, công nhận và thi hành phán quyết trọng tài.
So sánh với các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án khác, trọng tài thương mại đem lại một số lợi ích đặc biệt. Đối với thương lượng và hòa giải, mặc dù các bên tự do thỏa thuận và quyết định việc thi hành kết quả, nhưng phán quyết của trọng tài thương mại có tính cưỡng chế thi hành, nâng cao tính bắt buộc và chính thức cho việc giải quyết tranh chấp. Trong khi thương lượng và hòa giải dựa trên sự thỏa thuận và tự nguyện từ các bên, trọng tài thương mại do các trọng tài viên có chuyên môn pháp luật và kinh nghiệm đưa ra phán quyết, điều này tăng cơ hội đạt được kết quả chính xác và công bằng hơn. Sự khác biệt này làm cho trọng tài thương mại trở thành lựa chọn ưu tiên cho các bên mong muốn một giải pháp quyết định rõ ràng và có tính pháp lý cao trong giải quyết tranh chấp.
Bên cạnh những lợi thế kể trên, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng không tránh khỏi có những điểm hạn chế nhất định. So với tòa án, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có những hạn chế sau:
Một là, trọng tài không có tính cưỡng chế nhà nước, việc áp dụng các biện pháp tạm thời phần lớn vẫn cần có sự hỗ trợ của tòa án. Thủ tục để thực hiện sự hỗ trợ cũng cần nhiều thời gian khiến nhiều lúc việc áp dụng các biện pháp này không còn hiệu quả, không còn kịp thời nữa[5].
Hai là, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thường có chi phí cao hơn tòa án. Thực tiễn cho thấy, biểu phí được các trung tâm trọng tài ấn định thường cao hơn nhiều so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác như tòa án, hòa giải…
So với thương lượng, hòa giải, thì phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng có điểm hạn chế là phán quyết của trọng tài có thể đi ngược lại với ý chí của các bên tranh chấp (ví dụ, tuyên hợp đồng vô hiệu ngoài ý muốn của các bên); thủ tục tố tụng của phương thức trọng tài cũng phức tạp hơn so với thương lượng và hòa giải cũng như chi phí cao của trọng tài so với hai phương thức này.
Trọng tài là phương thức kết hợp hài hòa những ưu thế của các phương thức khác và ngày càng được ưa chuộng, phổ biến hơn ở mỗi quốc gia trên thế giới. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều áp dụng phương thức giải quyết này, bởi những ưu thế mà nó mang lại giúp cho tranh chấp giải quyết nhanh hơn, hiệu quả hơn[6].
2. Đánh giá thực tiễn thi hành Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 và đề xuất giải pháp hoàn thiện
Quốc hội nước ta lần đầu tiên ban hành Luật Trọng tài thương mại năm 2010, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2011. Luật này ghi nhận chủ trương mở rộng các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại và một số quan hệ dân sự khác có ít nhất một bên tham gia hoạt động thương mại.
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 được xây dựng dựa trên cơ sở nghiên cứu lý luận, kinh nghiệm thực tiễn từ việc áp dụng Pháp lệnh Trọng tài và tiếp nhận nguyên tắc của Luật Mẫu UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế.
Dù Luật Trọng tài thương mại năm 2010 được đánh giá là bước tiến mới của pháp luật Việt Nam về trọng tài, mang lại khung pháp lý tiên tiến và phù hợp với thực tiễn kinh tế - xã hội, nhưng qua thời gian áp dụng đã xuất hiện một số hạn chế và điểm bất cập trong các quy định khi thực thi trong thực tiễn.
2.1. Quy định về thẩm quyền của trọng tài thương mại với các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và các luật chuyên ngành
Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của trọng tài thương mại bao gồm: Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. Với quy định trên, phạm vi thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của trọng tài thương mại đã được mở rộng phù hợp với thông lệ quốc tế và nhu cầu thực tiễn, thống nhất và rõ ràng.
Tuy nhiên, trong quá trình thi hành, vẫn còn cách giải thích khác nhau về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại hay tòa án. Cụ thể, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định, với tranh chấp có yếu tố nước ngoài liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản tại Việt Nam thuộc thẩm quyền giải quyết riêng biệt của Tòa án Việt Nam[7]. Quy định đó đã dẫn đến một số vụ tranh chấp có cùng bản chất nhưng các tòa án đã có các quyết định khác nhau. Cụ thể, Quyết định số 393/2017/QĐ-PQTT của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xem xét yêu cầu hủy phán quyết trọng tài đã kết luận rằng việc Hội đồng trọng tài giải quyết một tranh chấp thương mại - Hợp đồng thuê đất cùng các cơ sở hạ tầng là đúng thẩm quyền theo Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010[8]. Nhưng với vụ việc cùng bản chất, Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã chấp nhận yêu cầu hủy phán quyết trọng tài đối với tranh chấp có liên quan tới tài sản là bất động sản tại Quyết định số 03/2018/QĐ-PQTT ngày 11/07/2018. Một trong những căn cứ hủy được Tòa án đưa ra đó là, tranh chấp giữa các bên không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài mà thuộc thẩm quyền riêng biệt của tòa án theo điểm a khoản 1 Điều 470 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Từ đó, để áp dụng thống nhất giữa các tòa án, cần có định hướng, giải thích, làm rõ những tranh chấp thương mại liên quan đến đất đai có thể được các bên lựa chọn trọng tài thương mại để giải quyết. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần lựa chọn, phát triển và công bố án lệ có liên quan tới việc áp dụng Điều 470 Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Trọng tài thương mại.
2.2. Quy định về điều kiện thành lập trung tâm trọng tài thương mại
Điều kiện thành lập trung tâm trọng tài được quy định tại Điều 24 Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Sau đó được hướng dẫn thi hành bởi Nghị định số 63/2011/NĐ-CP và hiện nay được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 124/2018/NĐ-CP. Những quy định này đã tạo điều kiện cho việc thành lập các trung tâm trọng tài tại Việt Nam cũng như phát triển số lượng trọng tài viên. Hiện nay, cả nước có 44 trung tâm trọng tài thương mại và 01 văn phòng đại diện của Ủy ban trọng tài thương mại Hàn Quốc với hơn 700 trọng tài viên[9]. Thị trường dịch vụ pháp lý về trọng tài thương mại tại Việt Nam được đánh giá là hấp dẫn và nhiều dư địa phát triển trong bối cảnh kinh tế Việt Nam đang ngày một hội nhập sâu và rộng hơn vào nền kinh tế khu vực cũng như thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế, hiệu quả hoạt động của một số trung tâm trọng tài chưa cao, có trung tâm trọng tài từ khi thành lập đến nay chưa giải quyết vụ tranh chấp nào, không bảo đảm các điều kiện hoạt động tối thiểu, gây ảnh hưởng đến hiệu lực và uy tín của trọng tài.
Cần nhìn nhận dịch vụ trọng tài thương mại là một loại dịch vụ pháp lý với phạm vi thị trường đặc thù, có nhiều nét tương đồng như với bất cứ thị trường dịch vụ chất lượng cao nào khác, đó là phụ thuộc rất lớn vào yếu tố uy tín của tất cả các nhà cung cấp dịch vụ này trên thị trường. Một nhà cung cấp yếu kém có thể gây ảnh hưởng tới niềm tin của người sử dụng dịch vụ trọng tài - các doanh nghiệp, gây khó khăn cho cả thị trường.
Do vậy, vấn đề quản lý thị trường dịch vụ trọng tài cũng cần xem xét, nghiên cứu đưa vào thành các quy định trong Luật Trọng tài thương mại năm 2010 như: Điều kiện bảo đảm cho hoạt động trọng tài (địa điểm, diện tích, trang bị tại nơi thực hiện xét xử, việc lưu trữ hồ sơ, tài liệu...). Ngoài ra, trung tâm trọng tài phải có cán bộ làm việc chuyên trách, mở cửa làm việc thường xuyên, liên tục theo đúng đăng ký hoạt động. Giảm thiểu tình trạng các trung tâm trọng tài không trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, tồn tại trên giấy như hiện nay.
2.3. Quy định về việc gửi thông báo và trình tự gửi thông báo của trọng tài
Việc gửi thông báo và trình tự gửi thông báo của trọng tài được quy định bởi Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Cụ thể, khoản 2 và khoản 4 Điều 12 quy định các thông báo, tài liệu mà trung tâm trọng tài hoặc hội đồng trọng tài gửi cho các bên được gửi đến địa chỉ của các bên hoặc gửi cho đại diện của các bên theo đúng địa chỉ do các bên thông báo và các tài liệu này được coi là đã nhận nếu thông báo, tài liệu đó đã được gửi phù hợp với quy định, tức được gửi tới địa chỉ được thông báo.
Quy định này chưa bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp. Cụ thể, Hợp đồng số 14/SMPFVN-2011 giữa Công ty A và ông B có điều khoản trọng tài thỏa thuận: Trong trường hợp cần có sự can thiệp của pháp luật, hai bên thống nhất cùng đưa ra trọng tài kinh tế để giải quyết. Khi phát sinh mâu thuẫn, Công ty A đã nộp đơn khởi kiện tới Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) vào ngày 16/9/2014. Ngay sau khi xem xét tính hợp pháp của đơn khởi kiện của nguyên đơn, đến ngày 21/9/2014, Công ty A đã thực hiện xong nghĩa vụ nộp phí trọng tài. VIAC tiến hành gửi thông báo thụ lý vụ tranh chấp, bản sao đơn khởi kiện và tài liệu có liên quan cho bị đơn là ông B theo địa chỉ mà Công ty A cung cấp (cũng là địa chỉ khi tham gia giao dịch), không nhận được phản hồi của ông B, nên Chủ tịch VIAC đã chỉ định trọng tài viên cho ông B và tiến hành thành lập Hội đồng trọng tài và gửi thư triệu tập ông B cũng theo địa chỉ trên để tham dự phiên họp. Do ông B không có thông tin phản hồi và không có mặt theo thư triệu tập nên Hội đồng trọng tài đã căn cứ vào các tài liệu do phía Công ty A cung cấp để giải quyết vắng mặt ông B.
Ngày 12/6/2015, Hội đồng trọng tài VIAC ban hành Phán quyết vụ tranh chấp, quyết định: Buộc ông B trả cho Công ty A số tiền 5.013.667.353 đồng và phải chịu 264.255.000 đồng phí trọng tài, thời hạn thi hành là 30 ngày kể từ ngày lập phán quyết. Ngoài ra, phán quyết còn có phần quyết định về chịu phí trọng tài mà Công ty A phải chịu và trách nhiệm chịu tiền lãi do chậm thi hành phán quyết của ông B. Kể từ ngày ban hành phán quyết, ông B không nhận được bản chính phán quyết, đến ngày 03/10/2015, khi nhận được quyết định thi hành án về việc thi hành phán quyết trên thì ông B mới biết sự tồn tại của phán quyết này và thực tế vụ tranh chấp đã diễn ra tại VIAC.
Ngay sau khi biết được sự tồn tại của phán quyết, đến ngày 13/10/2015, thông qua bưu điện, ông B đã nộp đơn yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố H hủy phán quyết trên với lý do không nhận được bất kỳ văn bản nào hay thông báo của VIAC trong suốt quá trình diễn ra tố tụng, đến khi kết thúc tố tụng ông B cũng không nhận được phán quyết trọng tài.
Ngày 19/10/2015, Tòa án yêu cầu ông B cung cấp chứng cứ chứng minh cho việc không nhận được văn bản của VIAC. Ngày 30/11/2015, ông B có văn bản đề nghị VIAC cung cấp chứng cứ chứng minh việc đã giao phán quyết hợp lệ cho ông B. Văn bản trả lời của VIAC xác định: Hội đồng trọng tài đã gửi phán quyết cho ông B theo vận đơn số EH 105136087 ngày 25/6/2015 và Công ty cổ phần Chuyển phát nhanh Bưu điện xác nhận không giao được cho ông B với lý do: “Địa chỉ nhận không đầy đủ hoặc không đúng”.
Với nội dung văn bản trả lời và chứng cứ kèm theo là vận đơn số EH 105136087 ngày 25/6/2015, VIAC xác định đã gửi phán quyết trọng tài cho ông B vào ngày 25/6/2015 theo đúng quy định pháp luật tố tụng trọng tài. Như đã đề cập ở trên, Hội đồng trọng tài chỉ cần biết rằng mình đã gửi tài liệu, thông báo theo đúng quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 12 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 mà không quan tâm người nhận có nhận được hay không.
Vì vậy, theo tác giả, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên, cách thức gửi thông báo và trình tự gửi thông báo trong tố tụng trọng tài cần sửa đổi, bổ sung vào Điều 12 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 để bảo đảm giải quyết trong trường hợp chỉ có một bên cung cấp địa chỉ nhận.
2.4. Quy định về tạm đình chỉ việc xem xét giải quyết đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài, Hội đồng trọng tài hoàn toàn có thể mắc một vài sai sót. Có những sai sót dẫn đến việc phán quyết trọng tài bị hủy và có những sai sót có thể sửa chữa, thay đổi. Vì thế, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định tại khoản 7 Điều 71 nhằm thừa nhận khả năng tòa án dành cơ hội cho trọng tài được khắc phục các sai sót trong quá trình tố tụng tránh việc hủy các phán quyết trọng tài.
Cụ thể, theo yêu cầu của một bên và xét thấy phù hợp, Hội đồng xét đơn yêu cầu có thể tạm đình chỉ việc xem xét giải quyết đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trong thời hạn không quá 60 ngày để tạo điều kiện cho Hội đồng trọng tài khắc phục sai sót tố tụng trọng tài theo quan điểm của Hội đồng trọng tài nhằm loại bỏ căn cứ hủy bỏ phán quyết trọng tài. Hội đồng trọng tài phải thông báo cho tòa án biết về việc khắc phục sai sót tố tụng. Trường hợp Hội đồng trọng tài không tiến hành khắc phục sai sót tố tụng thì tòa án tiếp tục xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.
Từ quy định này cho thấy, hội đồng trọng tài có cơ hội khắc phục sai sót tố tụng để hạn chế việc phán quyết trọng tài bị hủy bởi tòa án khi đáp ứng 02 điều kiện: Có yêu cầu của một bên và tòa án xét thấy phù hợp, cần thiết. Trong đó, điều kiện thứ nhất có thể dễ dàng đạt được nhưng điều kiện thứ hai hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm của tòa án. Điều luật quy định nhằm làm tăng khả năng của tòa án dành cơ hội cho trọng tài được khắc phục sai sót trong hoạt động tố tụng, nhưng vô hình trung trao quyền cho tòa án quá lớn. Theo đó, tòa án có toàn quyền cho phép hoặc không cho phép trọng tài khắc phục, sửa chữa lỗi tố tụng. Chính sự quy định không rõ ràng này mà trên thực tiễn xem xét hủy phán quyết của trọng tài tại tòa án, bằng quan điểm của mình tòa án đã hủy rất nhiều phán quyết của Hội đồng trọng tài vì những sai sót kỹ thuật hoàn toàn có thể khắc phục được.
2.5. Quy định về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 không định nghĩa về trọng tài thương mại quốc tế mà chỉ đưa ra khái niệm trọng tài nước ngoài, phán quyết của trọng tài nước ngoài. Thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài được quy định trong Phần VII Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Khoản 11 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định, trọng tài nước ngoài là trọng tài được thành lập theo quy định của pháp luật trọng tài nước ngoài (tranh chấp có thể nảy sinh trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam, địa điểm giải quyết tranh chấp có thể trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam do các bên lựa chọn). Luật Trọng tài thương mại năm 2010 chưa quy định rõ địa điểm tố tụng trọng tài có ảnh hưởng như thế nào đến tính chất “nước ngoài” của trọng tài và căn cứ nào để xác định trọng tài được thành lập theo pháp luật nước ngoài.
Đối với trọng tài quy chế, việc xác định trung tâm trọng tài thành lập theo pháp luật nước ngoài không khó khăn. Nhưng đối với trọng tài vụ việc, tố tụng trọng tài hoàn toàn do các bên thỏa thuận thì việc xác định trọng tài được thành lập theo pháp luật nước nào có thể gặp khó khăn.
Ngoài ra, có quy định về địa điểm tố tụng trọng tài, nơi Hội đồng trọng tài tuyên phán quyết và phân biệt địa điểm tố tụng trọng tài với địa điểm thực tế tổ chức các phiên họp của Hội đồng trọng tài nhưng các văn bản hướng dẫn và cách thức quy định trong Luật Trọng tài thương mại năm 2010 còn nhiều vướng mắc. Khoản 8 Điều 3, Điều 11 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và hướng dẫn trong Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có một số điểm chưa rõ ràng:
Một là, địa điểm giải quyết tranh chấp ở Việt Nam thì phán quyết được coi là tuyên ở Việt Nam mà không phụ thuộc vào nơi Hội đồng trọng tài tiến hành phiên họp để ra phán quyết đó (khoản 8 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010). Như vậy, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền tuyên hủy phán quyết trọng tài, đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc (khoản 2 Điều 7 Luật Trọng tài thương mại năm 2010) mà không phân biệt trọng tài trong nước hay nước ngoài. Tuy nhiên, hướng dẫn tại điểm b khoản 5 Điều 5 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP quy định: “Tòa án Việt Nam không có thẩm quyền đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc của Trọng tài nước ngoài tại điểm g khoản 2 Điều 7 Luật Trọng tài thương mại năm 2010”. Như vậy, hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Luật Trọng tài thương mại còn mâu thuẫn về địa điểm tố tụng trọng tài.
Hai là, địa điểm giải quyết tranh chấp không phải là Việt Nam thì chưa xác định được nơi phán quyết trọng tài được tuyên có trùng với địa điểm giải quyết tranh chấp hay không? Trường hợp các bên xác định địa điểm tố tụng trọng tài tại nước ngoài thì quy định chưa làm rõ phán quyết có phải được coi là tuyên ở nước ngoài đó hay không và hệ quả pháp lý ra sao? Từ đó khó khăn trong việc xác định thẩm quyền và pháp luật áp dụng đối với việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam.
Ba là, chưa có cơ chế đối với việc công nhận và cho thi hành các biện pháp khẩn cấp tạm thời do trọng tài nước ngoài đưa ra. Đối với trọng tài trong nước, quyết định về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời do Hội đồng trọng tài đưa ra được thi hành và do cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành.
Từ những yếu tố trên, theo quan điểm của tác giả, trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung Luật Trọng tài thương mại năm 2010 hiện nay, có thể đưa chế định về cơ chế hủy phán quyết trọng tài; công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài vào cùng trong Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Tuy nhiên, giải pháp này cần được nghiên cứu, đánh giá, đưa ra phương án sửa đổi giữa Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Luật Trọng tài thương mại năm 2010.
3. Kết luận
Trong quá trình hoàn thiện pháp luật nói chung, pháp luật về trọng tài thương mại nói riêng và cụ thể là Luật Trọng tài thương mại năm 2010, yếu tố cốt lõi là cần phải bổ sung quy định mới và cải tiến các quy định hiện hành, bảo đảm phù hợp và đáp ứng nhu cầu bảo vệ quyền lợi chung cho tất cả các bên trong tranh chấp thương mại. Điều này góp phần tạo nên sự ổn định và trật tự trong các giao dịch thương mại trên thị trường.
Bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật, việc bảo đảm hiệu lực và hiệu quả của Luật Trọng tài thương mại cũng cần phải dựa vào sự nâng cao nhận thức pháp lý cho cộng đồng, thương nhân, doanh nghiệp. Theo đó, cần phải tăng cường hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật, cũng như cung cấp các dịch vụ tư vấn và hỗ trợ pháp lý chuyên nghiệp để bảo đảm việc áp dụng có hiệu quả phương thức trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại./.
ThS. Nguyễn Xuân Nam
Văn phòng Bộ Tư pháp
Ảnh: Internet
[1]. Nguyễn Hồng Bắc (2012), Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng phương thức trọng tài ở Việt Nam, Tạp chí Luật học, tr. 11.
[2]. Điểm a Điều 2 Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL.
[3]. Nguyễn Đình Thơ (2007), Hoàn thiện pháp luật Trọng tài thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế, Luận án Tiến sỹ, Đại học Luật Hà Nội.
[4]. Phan Thông Anh (2006), Mối quan hệ giữa Tòa án và Trọng tài thương mại trong quá trình tố tụng trọng tài - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
[5]. Vũ Ánh Dương (2003), Vai trò của Tòa án trọng hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở Việt Nam, Luật văn Thạc sĩ Luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật.
[6]. Đỗ Văn Đại (2007), Giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý số 6/2007.
[7]. Điểm a khoản 1 Điều 470 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[8]. Quyết định số 393/2017-QĐ-PQTT của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh - “Hoạt động cho thuê đất cùng các cơ sở hạ tầng nhằm mục đích thu lợi nhuận là hoạt động thương mại. Các bên tham gia hợp đồng đều có đăng ký kinh doanh, vì vậy, tranh chấp giữa các bên trong hợp đồng thuộc phạm vi giải quyết bằng trọng tài theo Điều 2 của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 nên Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp giữa các bên là đúng thẩm quyền”.
[9]. https://bttp.moj.gov.vn/qt/Pages/trong-tai tm.aspx?Keyword=&Field=&&Page=5, truy cập ngày 10/3/2024.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 402), tháng 4/2024)