Thứ bảy 07/06/2025 15:38
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Điều kiện bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo

Điều kiện bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo

Tóm tắt: Bài viết tập trung phân tích điều kiện bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất đối với cơ sở tôn giáo, từ đó, chỉ ra những bất cập liên quan và đưa ra một số kiến ​​nghị nhằm hoàn thiện cơ chế này trong thời gian tới.

Abstract: The article focuses on analyzing the conditions for compensation for land when the State recovers land for religious establishments, thereby pointing out related shortcomings and making some recommendations to improve this mechanism in the future.

1. Khái quát về bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo

Dưới góc độ pháp lý, khoản 1 Điều 159 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Đất cơ sở tôn giáo gồm đất thuộc chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động”. Bên cạnh đó, về hình thức giao đất, đối với đất tôn giáo, theo khoản 5 Điều 54 Luật Đất đai năm 2013 thì: “Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với cơ sở tôn giáo sử dụng đất phi nông nghiệp”[1].

Các trường hợp Nhà nước thu hồi đất mà được bồi thường về đất được Luật Đất đai năm 2013 quy định dựa trên tiêu chí: Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh và thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, lợi ích chung của cộng đồng, các dự án mà Nhà nước thu hồi đất để thực hiện căn cứ vào ý nghĩa, tính chất quan trọng của dự án với việc phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, lợi ích chung của cộng đồng, không phân biệt dự án đó là của thành phần kinh tế nào[2]. Do đó, việc bồi thường về đất cho cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất chỉ được thực hiện khi Nhà nước thu hồi đất vì những mục đích trên.

Cho đến nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào giải thích cụ thể khái niệm bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo. Từ các khái niệm đã phân tích trên, suy cho cùng thì việc bồi thường về đất đối với các cơ sở tôn giáo được hiểu là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất gồm các cơ sở tôn giáo như chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động.

Cơ sở bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo bao gồm:

Thứ nhất, đối với việc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của cơ sở tôn giáo cần lưu ý đến các yếu tố: Thời điểm sử dụng đất trước hay sau ngày 01/7/2004; đất nông nghiệp sử dụng có nguồn gốc do được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm hay không. Ngoài ra, việc xác định chi phí đầu tư vào đất còn lại để tính bồi thường thực hiện theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (Nghị định số 47/2014/NĐ-CP)[3].

Để tính bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất phi nông nghiệp không phải là đất ở của cơ sở tôn giáo thì phải lưu ý đến các yếu tố: Thời điểm sử dụng đất là trước ngày 01/7/2004 hay từ ngày 01/7/2004 trở về sau; nguồn gốc giao đất, cho thuê đất. Trường hợp thu hồi toàn bộ hoặc một phần diện tích mà diện tích đất còn lại không đủ điều kiện để tiếp tục sử dụng, nếu cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo còn có nhu cầu sử dụng đất vào mục đích chung của cộng đồng, cơ sở tôn giáo thì được Nhà nước giao đất mới tại nơi khác; việc giao đất mới tại nơi khác phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt[4].

Thứ hai, cơ sở phát sinh việc bồi thường về đất bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng đất cho cơ sở tôn giáo khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng của cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất.

Thứ ba, phương thức bồi thường bằng đất hoặc bằng tiền. Điều này có nghĩa là, khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo, phương thức bồi thường có thể được chia làm hai nhóm: (i) Bồi thường về đất cho cơ sở tôn giáo; (ii) Bồi thường bằng tiền khi không còn đất có cùng mục đích sử dụng để bồi thường cho cơ sở tôn giáo. Trong đó, bồi thường về đất cho cơ sở tôn giáo khi Nhà nước thu hồi đất được coi là phương thức “đất đổi đất”, tức là khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo thì bồi thường bằng đất cho cơ sở tôn giáo có đất bị thu hồi. Đây là phương thức bồi thường mang lại nhiều lợi ích cho người sử dụng đất, mà ở đây là cơ sở tôn giáo.

Thứ tư, giá đất tính tiền bồi thường cho cơ sở tôn giáo là giá đất cụ thể tại thời điểm quyết định thu hồi đất. Có nghĩa là, khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo, giá đất để tính bồi thường theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.

2. Thực trạng pháp luật và kiến nghị hoàn thiện về điều kiện bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo

Điều kiện bồi thường về đất, theo tác giả, không chỉ đơn thuần trả lời cho câu hỏi đất này có được bồi thường hay không, mà điều kiện bồi thường về đất phải được xác định rộng cho cả điều kiện xác định mục đích sử dụng đất được bồi thường. Tức là, bồi thường về đất sẽ bao gồm hai vấn đề: Đất bị thu hồi được bồi thường không và đất được bồi thường theo mục đích nào? Không phải bất cứ cơ sở tôn giáo nào khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng cũng đều được bồi thường mà chỉ đối với những cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất mà không phải là đất do Nhà nước giao, cho thuê và có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 mà chưa được cấp[5]. Xoay quanh vấn đề này, tác giả nhận thấy, cần làm rõ một số điểm như sau[6]:

Thứ nhất, Luật Đất đai năm 2013 còn nhiều bất cập và chưa thống nhất với nhau trong việc quy định bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của cơ sở tôn giáo, cụ thể: Luật Đất đai hiện hành quy định Nhà nước chỉ giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với cơ sở tôn giáo sử dụng đất phi nông nghiệp quy định tại khoản 1 Điều 159 của Luật này[7]. Theo đó, Nhà nước chỉ giao đất cho cơ sở tôn giáo là đất phi nông nghiệp với hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất. Điều này có nghĩa là, khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo thì không được bồi thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại (nếu có). Tuy nhiên, khoản 3 Điều 78 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất mà có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường về đất theo quy định của Chính phủ”. Như vậy, trong cùng một văn bản pháp luật lại có hai quy định đối lập nhau, không thống nhất với nhau dẫn đến việc áp dụng trong công tác bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất cơ sở tôn giáo sẽ gặp khó khăn, vướng mắc.

Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 93 Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định: “…tổ chức tôn giáo đang sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất mà có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 90 của Luật này thì được bồi thường về đất theo quy định của Chính phủ”. Theo quy định này thì Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) so với Luật Đất đai năm 2013 chỉ có điểm khác biệt, đó là thay đổi “cơ sở tôn giáo” thành “tổ chức tôn giáo”.

Như vậy, từ vướng mắc nêu trên, theo tác giả, Luật Đất đai cần phải quy định rõ trường hợp Nhà nước giao đất nông nghiệp cho cơ sở tôn giáo có thu tiền sử dụng đất hay không thu tiền sử dụng đất, đây là cơ sở để xác định việc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của cơ sở tôn giáo. Bên cạnh đó, Luật Đất đai cần quy định thêm trường hợp cơ sở tôn giáo sử dụng đất nông nghiệp thì cần bảo đảm những điều kiện nào thì mới được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất.

Thứ hai, Luật Đất đai năm 2013 vẫn còn một số bất cập trong việc quy định bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất phi nông nghiệp của cơ sở tôn giáo, cụ thể: Luật Đất đai hiện hành quy định Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với “cơ sở tôn giáo sử dụng đất phi nông nghiệp quy định tại khoản 1 Điều 159 của Luật này”[8], theo đó, khi Nhà nước thu hồi đất phi nông nghiệp của cơ sở tôn giáo thì không được bồi thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại (nếu có). Tuy nhiên, khoản 5 Điều 81 Luật Đất đai năm 2013 quy định “cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất phi nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất mà có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường về đất theo quy định của Chính phủ”. Như vậy, trong cùng một văn bản pháp luật lại có hai quy định đối lập nhau, không thống nhất với nhau dẫn đến việc áp dụng trong công tác bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất cơ sở tôn giáo sẽ gặp khó khăn, vướng mắc.

Bên cạnh đó, khoản 5 Điều 96 Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định: “…tổ chức tôn giáo đang sử dụng đất phi nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất mà có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 90 của Luật này thì được bồi thường về đất theo quy định của Chính phủ”. Theo quy định này thì Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) so với Luật Đất đai năm 2013 chỉ có điểm khác biệt, đó là thay đổi “cơ sở tôn giáo” thành “tổ chức tôn giáo”.

Như vậy, từ vấn đề vướng mắc nêu trên, theo tác giả, Luật Đất đai cần phải quy định thống nhất, rõ ràng đối với việc Nhà nước giao đất phi nông nghiệp cho cơ sở tôn giáo không thu tiền sử dụng đất, khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo thì chỉ được bồi thường chi phí đầu tư vào đất (nếu có). Ngoài ra, Luật Đất đai cần bổ sung quy định trường hợp thu hồi toàn bộ hoặc một phần diện tích mà diện tích đất còn lại không đủ điều kiện để tiếp tục sử dụng, nếu cơ sở tôn giáo còn có nhu cầu sử dụng đất vào mục đích chung của cơ sở tôn giáo thì được Nhà nước giao đất mới tại nơi khác; việc giao đất mới tại nơi khác phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Có như vậy mới hạn chế được tình trạng cơ quan cấp dưới tự ý mở rộng phạm vi quyền hạn, đồng thời hạn chế được những bất cập khi áp dụng pháp luật đối với việc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất phi nông nghiệp của cơ sở tôn giáo.

Thứ ba, khi xét bồi thường về đất đối với cơ sở tôn giáo khi xác định đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, các vấn đề cần xác định gồm: Thời điểm sử dụng đất; tính ổn định trong quá trình sử dụng đất; nguồn gốc sử dụng đất. Tuy nhiên, còn vướng mắc khi xác định điều kiện bồi thường đối với trường hợp cơ sở tôn giáo có khó khăn trong quá trình triển khai như trên thực tế là sử dụng cho mục đích tín ngưỡng, tôn giáo (xây dựng chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường…) nhưng trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất vẫn là đất của cá nhân, hộ gia đình và khi thu hồi lại muốn áp dụng quy định như đối với cơ sở tôn giáo (được giao đất mới tại nơi khác). Trên thực tế, nếu căn cứ theo thông tin trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì sẽ áp dụng quy định đối với hộ gia đình, cá nhân, khi đó, các tín đồ tôn giáo sẽ phản ứng tạo nên sự bất ổn trong việc giải phóng mặt bằng.

Bên cạnh đó, việc xác định nguồn gốc đất đối với trường hợp chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất gặp nhiều khó khăn do đa phần việc tặng, cho đất cơ sở tôn giáo thực hiện trước ngày 01/7/2004 thực hiện bằng lời nói; ngoài ra, khi tổ chức lấy ý kiến dân cư về nguồn gốc đất, do cơ sở tôn giáo được hình thành lâu đời, nhiều người am hiểu nguồn gốc đất đã chết nên rất khó xác minh nguồn gốc. Do đó, để điều kiện bồi thường đối với đất của cơ sở tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động mà chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được áp dụng hiệu quả và thuận lợi thì cần phải quy định rõ tình trạng sử dụng đất cho mục đích tín ngưỡng, tôn giáo (xây dựng chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và cơ sở khác của tôn giáo) và trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải là đất cơ sở tôn giáo để tạo thuận lợi cho công tác bồi thường và không gây phản ứng, bất ổn trong giải phóng mặt bằng. Bên cạnh đó, cũng cần quy định rõ việc xác định nguồn gốc đất đối với trường hợp chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trong trường hợp việc tặng, cho đất cơ sở tôn giáo thực hiện trước ngày 01/7/2004 thực hiện bằng lời nói; trường hợp khi tổ chức lấy ý kiến dân cư về nguồn gốc đất, do cơ sở tôn giáo được hình thành lâu đời nên có nhiều người am hiểu nguồn gốc đất đã chết, để có cơ sở pháp lý rõ ràng, tạo thuận lợi trong việc áp dụng giải quyết bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo.

Hồ Văn Nhân

Học viện Cao học, Trường Đại học Cần Thơ

[1]. Phạm Hữu Nghị, Hoàn thiện các quy định về đất tôn giáo, đất tín ngưỡng, Hội thảo cấp trường “Góp ý dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)”, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2022, tr. 50.

[2]. Huỳnh Nguyễn Thanh Tâm, Bồi thường về đất bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng, Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Luật Kinh tế, Trường Đại học Cần Thơ, năm 2021, tr. 27.

[3]. Phan Trung Hiền, Những điều cần biết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, năm 2021, tr. 203 - 204.

[4]. Phan Trung Hiền, Tldd, tr. 220.

[5]. Phan Trung Hiền (Chủ biên), Châu Hoàng Thân, Trần Vang Phủ, Pháp luật về quy hoạch và giải phóng mặt bằng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, năm 2019, tr. 255.

[6]. Phan Trung Hiền, Nguyễn Thành Phương, Hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc khi Nhà nước thu hồi đất, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số 8 (2021), tr. 22.

[7]. Khoản 5 Điều 54 Luật Đất đai năm 2013.

[8]. Khoản 5 Điều 54 Luật Đất đai năm 2013.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 382), tháng 6/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.
Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu đồng tình, nhất trí cao tại phiên họp thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng pháp luật do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 11/4/2025. Đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ tịch Hội đồng thẩm định chủ trì phiên họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm