
Tóm tắt: Bài viết tập trung phân tích điều kiện bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất đối với cơ sở tôn giáo, từ đó, chỉ ra những bất cập liên quan và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế này trong thời gian tới.
Abstract: The article focuses on analyzing the conditions for compensation for land when the State recovers land for religious establishments, thereby pointing out related shortcomings and making some recommendations to improve this mechanism in the future.
1. Khái quát về bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo
Dưới góc độ pháp lý, khoản 1 Điều 159 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Đất cơ sở tôn giáo gồm đất thuộc chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động”. Bên cạnh đó, về hình thức giao đất, đối với đất tôn giáo, theo khoản 5 Điều 54 Luật Đất đai năm 2013 thì: “Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với cơ sở tôn giáo sử dụng đất phi nông nghiệp”[1].
Các trường hợp Nhà nước thu hồi đất mà được bồi thường về đất được Luật Đất đai năm 2013 quy định dựa trên tiêu chí: Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh và thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, lợi ích chung của cộng đồng, các dự án mà Nhà nước thu hồi đất để thực hiện căn cứ vào ý nghĩa, tính chất quan trọng của dự án với việc phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, lợi ích chung của cộng đồng, không phân biệt dự án đó là của thành phần kinh tế nào[2]. Do đó, việc bồi thường về đất cho cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất chỉ được thực hiện khi Nhà nước thu hồi đất vì những mục đích trên.
Cho đến nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào giải thích cụ thể khái niệm bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo. Từ các khái niệm đã phân tích trên, suy cho cùng thì việc bồi thường về đất đối với các cơ sở tôn giáo được hiểu là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất gồm các cơ sở tôn giáo như chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động.
Cơ sở bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo bao gồm:
Thứ nhất, đối với việc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của cơ sở tôn giáo cần lưu ý đến các yếu tố: Thời điểm sử dụng đất trước hay sau ngày 01/7/2004; đất nông nghiệp sử dụng có nguồn gốc do được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm hay không. Ngoài ra, việc xác định chi phí đầu tư vào đất còn lại để tính bồi thường thực hiện theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (Nghị định số 47/2014/NĐ-CP)[3].
Để tính bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất phi nông nghiệp không phải là đất ở của cơ sở tôn giáo thì phải lưu ý đến các yếu tố: Thời điểm sử dụng đất là trước ngày 01/7/2004 hay từ ngày 01/7/2004 trở về sau; nguồn gốc giao đất, cho thuê đất. Trường hợp thu hồi toàn bộ hoặc một phần diện tích mà diện tích đất còn lại không đủ điều kiện để tiếp tục sử dụng, nếu cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo còn có nhu cầu sử dụng đất vào mục đích chung của cộng đồng, cơ sở tôn giáo thì được Nhà nước giao đất mới tại nơi khác; việc giao đất mới tại nơi khác phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt[4].
Thứ hai, cơ sở phát sinh việc bồi thường về đất bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng đất cho cơ sở tôn giáo khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng của cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất.
Thứ ba, phương thức bồi thường bằng đất hoặc bằng tiền. Điều này có nghĩa là, khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo, phương thức bồi thường có thể được chia làm hai nhóm: (i) Bồi thường về đất cho cơ sở tôn giáo; (ii) Bồi thường bằng tiền khi không còn đất có cùng mục đích sử dụng để bồi thường cho cơ sở tôn giáo. Trong đó, bồi thường về đất cho cơ sở tôn giáo khi Nhà nước thu hồi đất được coi là phương thức “đất đổi đất”, tức là khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo thì bồi thường bằng đất cho cơ sở tôn giáo có đất bị thu hồi. Đây là phương thức bồi thường mang lại nhiều lợi ích cho người sử dụng đất, mà ở đây là cơ sở tôn giáo.
Thứ tư, giá đất tính tiền bồi thường cho cơ sở tôn giáo là giá đất cụ thể tại thời điểm quyết định thu hồi đất. Có nghĩa là, khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo, giá đất để tính bồi thường theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
2. Thực trạng pháp luật và kiến nghị hoàn thiện về điều kiện bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo
Điều kiện bồi thường về đất, theo tác giả, không chỉ đơn thuần trả lời cho câu hỏi đất này có được bồi thường hay không, mà điều kiện bồi thường về đất phải được xác định rộng cho cả điều kiện xác định mục đích sử dụng đất được bồi thường. Tức là, bồi thường về đất sẽ bao gồm hai vấn đề: Đất bị thu hồi được bồi thường không và đất được bồi thường theo mục đích nào? Không phải bất cứ cơ sở tôn giáo nào khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng cũng đều được bồi thường mà chỉ đối với những cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất mà không phải là đất do Nhà nước giao, cho thuê và có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 mà chưa được cấp[5]. Xoay quanh vấn đề này, tác giả nhận thấy, cần làm rõ một số điểm như sau[6]:
Thứ nhất, Luật Đất đai năm 2013 còn nhiều bất cập và chưa thống nhất với nhau trong việc quy định bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của cơ sở tôn giáo, cụ thể: Luật Đất đai hiện hành quy định Nhà nước chỉ giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với cơ sở tôn giáo sử dụng đất phi nông nghiệp quy định tại khoản 1 Điều 159 của Luật này[7]. Theo đó, Nhà nước chỉ giao đất cho cơ sở tôn giáo là đất phi nông nghiệp với hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất. Điều này có nghĩa là, khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo thì không được bồi thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại (nếu có). Tuy nhiên, khoản 3 Điều 78 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất mà có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường về đất theo quy định của Chính phủ”. Như vậy, trong cùng một văn bản pháp luật lại có hai quy định đối lập nhau, không thống nhất với nhau dẫn đến việc áp dụng trong công tác bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất cơ sở tôn giáo sẽ gặp khó khăn, vướng mắc.
Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 93 Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định: “…tổ chức tôn giáo đang sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất mà có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 90 của Luật này thì được bồi thường về đất theo quy định của Chính phủ”. Theo quy định này thì Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) so với Luật Đất đai năm 2013 chỉ có điểm khác biệt, đó là thay đổi “cơ sở tôn giáo” thành “tổ chức tôn giáo”.
Như vậy, từ vướng mắc nêu trên, theo tác giả, Luật Đất đai cần phải quy định rõ trường hợp Nhà nước giao đất nông nghiệp cho cơ sở tôn giáo có thu tiền sử dụng đất hay không thu tiền sử dụng đất, đây là cơ sở để xác định việc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của cơ sở tôn giáo. Bên cạnh đó, Luật Đất đai cần quy định thêm trường hợp cơ sở tôn giáo sử dụng đất nông nghiệp thì cần bảo đảm những điều kiện nào thì mới được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất.
Thứ hai, Luật Đất đai năm 2013 vẫn còn một số bất cập trong việc quy định bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất phi nông nghiệp của cơ sở tôn giáo, cụ thể: Luật Đất đai hiện hành quy định Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với “cơ sở tôn giáo sử dụng đất phi nông nghiệp quy định tại khoản 1 Điều 159 của Luật này”[8], theo đó, khi Nhà nước thu hồi đất phi nông nghiệp của cơ sở tôn giáo thì không được bồi thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại (nếu có). Tuy nhiên, khoản 5 Điều 81 Luật Đất đai năm 2013 quy định “cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất phi nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất mà có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường về đất theo quy định của Chính phủ”. Như vậy, trong cùng một văn bản pháp luật lại có hai quy định đối lập nhau, không thống nhất với nhau dẫn đến việc áp dụng trong công tác bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất cơ sở tôn giáo sẽ gặp khó khăn, vướng mắc.
Bên cạnh đó, khoản 5 Điều 96 Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định: “…tổ chức tôn giáo đang sử dụng đất phi nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất mà có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 90 của Luật này thì được bồi thường về đất theo quy định của Chính phủ”. Theo quy định này thì Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) so với Luật Đất đai năm 2013 chỉ có điểm khác biệt, đó là thay đổi “cơ sở tôn giáo” thành “tổ chức tôn giáo”.
Như vậy, từ vấn đề vướng mắc nêu trên, theo tác giả, Luật Đất đai cần phải quy định thống nhất, rõ ràng đối với việc Nhà nước giao đất phi nông nghiệp cho cơ sở tôn giáo không thu tiền sử dụng đất, khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo thì chỉ được bồi thường chi phí đầu tư vào đất (nếu có). Ngoài ra, Luật Đất đai cần bổ sung quy định trường hợp thu hồi toàn bộ hoặc một phần diện tích mà diện tích đất còn lại không đủ điều kiện để tiếp tục sử dụng, nếu cơ sở tôn giáo còn có nhu cầu sử dụng đất vào mục đích chung của cơ sở tôn giáo thì được Nhà nước giao đất mới tại nơi khác; việc giao đất mới tại nơi khác phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Có như vậy mới hạn chế được tình trạng cơ quan cấp dưới tự ý mở rộng phạm vi quyền hạn, đồng thời hạn chế được những bất cập khi áp dụng pháp luật đối với việc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất phi nông nghiệp của cơ sở tôn giáo.
Thứ ba, khi xét bồi thường về đất đối với cơ sở tôn giáo khi xác định đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, các vấn đề cần xác định gồm: Thời điểm sử dụng đất; tính ổn định trong quá trình sử dụng đất; nguồn gốc sử dụng đất. Tuy nhiên, còn vướng mắc khi xác định điều kiện bồi thường đối với trường hợp cơ sở tôn giáo có khó khăn trong quá trình triển khai như trên thực tế là sử dụng cho mục đích tín ngưỡng, tôn giáo (xây dựng chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường…) nhưng trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất vẫn là đất của cá nhân, hộ gia đình và khi thu hồi lại muốn áp dụng quy định như đối với cơ sở tôn giáo (được giao đất mới tại nơi khác). Trên thực tế, nếu căn cứ theo thông tin trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì sẽ áp dụng quy định đối với hộ gia đình, cá nhân, khi đó, các tín đồ tôn giáo sẽ phản ứng tạo nên sự bất ổn trong việc giải phóng mặt bằng.
Bên cạnh đó, việc xác định nguồn gốc đất đối với trường hợp chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất gặp nhiều khó khăn do đa phần việc tặng, cho đất cơ sở tôn giáo thực hiện trước ngày 01/7/2004 thực hiện bằng lời nói; ngoài ra, khi tổ chức lấy ý kiến dân cư về nguồn gốc đất, do cơ sở tôn giáo được hình thành lâu đời, nhiều người am hiểu nguồn gốc đất đã chết nên rất khó xác minh nguồn gốc. Do đó, để điều kiện bồi thường đối với đất của cơ sở tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động mà chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được áp dụng hiệu quả và thuận lợi thì cần phải quy định rõ tình trạng sử dụng đất cho mục đích tín ngưỡng, tôn giáo (xây dựng chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và cơ sở khác của tôn giáo) và trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải là đất cơ sở tôn giáo để tạo thuận lợi cho công tác bồi thường và không gây phản ứng, bất ổn trong giải phóng mặt bằng. Bên cạnh đó, cũng cần quy định rõ việc xác định nguồn gốc đất đối với trường hợp chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trong trường hợp việc tặng, cho đất cơ sở tôn giáo thực hiện trước ngày 01/7/2004 thực hiện bằng lời nói; trường hợp khi tổ chức lấy ý kiến dân cư về nguồn gốc đất, do cơ sở tôn giáo được hình thành lâu đời nên có nhiều người am hiểu nguồn gốc đất đã chết, để có cơ sở pháp lý rõ ràng, tạo thuận lợi trong việc áp dụng giải quyết bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất của cơ sở tôn giáo.
Hồ Văn Nhân
Học viện Cao học, Trường Đại học Cần Thơ
[1]. Phạm Hữu Nghị, Hoàn thiện các quy định về đất tôn giáo, đất tín ngưỡng, Hội thảo cấp trường “Góp ý dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)”, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2022, tr. 50.
[2]. Huỳnh Nguyễn Thanh Tâm, Bồi thường về đất bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng, Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Luật Kinh tế, Trường Đại học Cần Thơ, năm 2021, tr. 27.
[3]. Phan Trung Hiền, Những điều cần biết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, năm 2021, tr. 203 - 204.
[4]. Phan Trung Hiền, Tldd, tr. 220.
[5]. Phan Trung Hiền (Chủ biên), Châu Hoàng Thân, Trần Vang Phủ, Pháp luật về quy hoạch và giải phóng mặt bằng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, năm 2019, tr. 255.
[6]. Phan Trung Hiền, Nguyễn Thành Phương, Hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc khi Nhà nước thu hồi đất, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số 8 (2021), tr. 22.
[7]. Khoản 5 Điều 54 Luật Đất đai năm 2013.
[8]. Khoản 5 Điều 54 Luật Đất đai năm 2013.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 382), tháng 6/2023)