Thứ sáu 04/07/2025 13:10
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản, thu nhập không giải trình được một cách hợp lý về nguồn gốc

Việc xử lý tài sản, thu nhập kê khai không trung thực, không giải trình được một cách hợp lý về nguồn gốc là vấn đề khó, không những đối với Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới. Nội dung này đã được nghiên cứu, bàn thảo nhiều lần nhưng đến nay vẫn chưa đưa được vào trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018. Do vậy, cần tiếp tục nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về xử lý tài sản, thu nhập kê khai không trung thực và tài sản, thu nhập tăng thêm không giải trình một cách hợp lý về nguồn gốc với mục tiêu đặt ra là nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng nhưng phải tôn trọng đầy đủ các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền, tôn trọng quyền và tài sản của công dân

1. Quan niệm về tài sản, thu nhập kê khai không trung thực, tài sản, thu nhập tăng thêm không giải trình được một cách hợp lý về nguồn gốc


Điều 20 (làm giàu bất hợp pháp) của Công ước Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng (UNCAC) quy định: Trên cơ sở tuân thủ Hiến pháp và các nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật nước mình, mỗi quốc gia thành viên sẽ áp dụng các biện pháp lập pháp và các biện pháp cần thiết khác nhằm quy định là tội phạm, nếu được thực hiện một cách cố ý, hành vi làm giàu bất hợp pháp, nghĩa là việc tài sản của một công chức tăng đáng kể so với thu nhập hợp pháp của công chức mà công chức này không giải thích được một cách hợp lý về lý do tăng đáng kể như vậy.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng yêu cầu phải xử lý đúng pháp luật, kịp thời, công khai cán bộ tham nhũng; tịch thu sung công tài sản tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng. Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 21/8/2006 Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã đề ra chủ trương, giải pháp quan trọng, đó là: Thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản và xác minh bản kê khai theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng… Tiến tới tất cả đảng viên là cán bộ, công chức đều phải kê khai tài sản, công bố trong chi bộ, cấp ủy và giải trình nguồn gốc khi có yêu cầu.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng quy định: Kiên quyết xử lý và kịp thời thay thế những cán bộ, lãnh đạo quản lý tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm minh các cán bộ, đảng viên, công chức vi phạm về kê khai, tài sản thu nhập; kiên quyết thu hồi tiền và tài sản bị tham nhũng.

Như vậy, chủ trương nhất quán của Đảng là cùng với việc xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật đối với người có hành vi tham nhũng, cần phải quan tâm tới việc xử lí tài sản, thu nhập kê khai không trung thực, tài sản, thu nhập tăng thêm mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được hợp lý về nguồn gốc.

2. Một số vấn đề pháp luật liên quan đến xử lý tài sản, thu nhập tăng thêm không giải trình được một cách hợp lý

Về nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định: “Người có nghĩa vụ kê khai phải kê khai trung thực về tài sản, thu nhập, giải trình trung thực về nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật này và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc kê khai tài sản, thu nhập” (khoản 2 Điều 33).

Về xử lý hành vi kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực, Điều 51 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định:

“1. Người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân mà kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực thì bị xóa tên khỏi danh sách những người ứng cử.

2. Người được dự kiến bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, phê chuẩn, cử giữ chức vụ mà kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực thì không được bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, phê chuẩn, cử vào chức vụ đã dự kiến.

3. Người có nghĩa vụ kê khai không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, bị xử lý kỷ luật bằng một trong các hình thức cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc hoặc bãi nhiệm; nếu được quy hoạch vào các chức danh lãnh đạo, quản lý thì còn bị đưa ra khỏi danh sách quy hoạch; trường hợp xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm thì có thể xem xét không kỷ luật.

4. Quyết định kỷ luật được công khai tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người bị xử lý kỷ luật làm việc”.

Như vậy, Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành chưa có quy định nào về việc xử lý tài sản tăng thêm mà không giải trình được nguồn gốc một cách hợp lý và các hình thức xử lý vi phạm đối với người kê khai không trung thực, giải trình không hợp lý còn nhẹ chưa mang tính phòng ngừa và răn đe. Đồng thời, trong Bộ luật Hình sự còn thiếu những tội phạm mà trong đó tham nhũng “ẩn nấp” như tội làm giàu bất chính, tội nhận quà biếu có giá trị lớn. Pháp luật quy định tài sản bị tịch thu gồm tài sản tham nhũng và tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng gây ra một số khó khăn trong thực tiễn khi phải chứng minh nguồn gốc của tài sản tham nhũng. Trong bối cảnh tham nhũng ngày càng tinh vi, phức tạp, tài sản tham nhũng thường được đối tượng phạm tội tẩu tán ra nước ngoài, chuyển đổi hình thức sở hữu để được “tẩy rửa” nguồn gốc hợp pháp. Ngoài ra, hình phạt tiền, tịch thu tài sản đối với tội tham nhũng chỉ mang tính tùy nghi mà không bắt buộc cho nên thực tiễn rất ít được áp dụng.

Ngoài ra, tuy Bộ luật Dân sự đã quy định việc kiện dân sự để đòi lại tài sản tham nhũng, bồi thường thiệt hại do tham nhũng… nhưng Bộ luật Tố tụng dân sự chỉ quy định cơ quan, tổ chức là chủ sở hữu hoặc quản lý hợp pháp tài sản mới có thẩm quyền khởi kiện là thiếu khả thi. Trong các vụ án tham nhũng, nhất là tham nhũng lớn, người có thẩm quyền (đại diện theo pháp luật) trong cơ quan, tổ chức đó đều có liên quan (trực tiếp hay gián tiếp trách nhiệm); nên việc giao cho những người đó thẩm quyền khởi kiện là “không tưởng”. Ngoài ra, trong nhiều vụ án, việc xác định ai là chủ sở hữu hoặc được giao quản lý tài sản là điều rất khó khăn.

Có thể thấy, một trong những hạn chế lớn nhất của Luật Phòng, chống tham nhũng hiện nay và các luật khác liên quan chính là chúng ta chưa có công cụ mạnh để kiểm soát tài sản của cán bộ, công chức. Thời gian qua, dư luận xôn xao về những khối tài sản lớn của quan chức và nghi ngờ nó có nguồn gốc từ tham nhũng. Tuy nhiên, để chứng minh nguồn gốc khối tài sản này là không dễ dàng, bởi các quy định hiện hành chưa tạo khả năng kiểm soát tốt hành vi không trung thực trong kê khai tài sản của cán bộ, công chức.

Chính vì những lý do trên mà vấn đề hình sự hóa hành vi làm giàu bất minh chưa được chấp nhận ở Việt Nam. Trách nhiệm giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm đã được quy định nhưng chỉ dừng lại ở việc xử lý hành chính đối với việc giải trình nguồn gốc tài sản không trung thực. Do vậy, để xử lý được vấn đề này thì trước hết cần kiểm soát ngay những khoản thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn từ ngân sách nhà nước. Để làm được điều này thì cố gắng mọi thu nhập hợp pháp của người có chức vụ quyền hạn cần tính toán để đưa vào lương, với một mức độ bảm đảm cuộc sống ở mức khá so với mặt bằng chung của xã hội. Các hoạt động sinh lợi khác của công chức đều phải được công chức chủ động báo cáo, chẳng hạn như những công việc làm thêm, những giao dịch sinh lợi, những khoản đầu tư, tài sản cho thuê... và Nhà nước phải thiết lập hệ thống quản lý hiệu quả đối với những hoạt động này.

3. Đánh giá thực trạng về xử lý tài sản, thu nhập tăng thêm không giải trình được một cách hợp lý về nguồn gốc

Về xử lý tài sản và thu nhập mà cán bộ công chức và các đối tượng nêu ra trong dự thảo luật kê khai không trung thực hoặc tài sản tăng thêm mà không được giải trình một cách hợp lý, tài sản và thu nhập không minh bạch thì khó khăn hạn chế trong thời gian qua chính là từ việc chưa có phương án xử lý tài sản thu nhập mà cả người kê khai lẫn cơ quan kiểm tra xác minh đều không có bằng chứng về nguồn gốc của tài sản và thu nhập.

Việc kê khai tài sản, thu nhập còn bỏ ngỏ khâu kiểm tra, xác minh, đánh giá, kết luận. Người có nghĩa vụ kê khai đã “tự giác” theo biểu mẫu quy định. Tuy nhiên, nội dung kê khai hầu như không được bộ phận chức năng kiểm tra, xác minh, đánh giá và kết luận. Vì thế, người có nghĩa vụ kê khai luôn tâm niệm “đến hẹn lại lên” với việc kê khai tài sản, thu nhập hàng năm.

Vấn đề tài sản, thu nhập kê khai không trung thực, không giải trình được nguồn gốc một cách hợp lý chưa kiên quyết xử lý. Số tài sản không giải trình được chưa được xử lý một cách kiên quyết. Thực tế việc xử lý tài sản, thu nhập không giải trình được một cách minh bạch, hợp lý, không chứng minh được rõ ràng nguồn gốc hợp pháp chưa được trú trọng, còn tình trạng giải quyết không dứt điểm.

Nguyên nhân của tình trạng trên là do:

Thứ nhất, thiếu các biện pháp bảo đảm thực hiện hiệu quả việc kê khai, kiểm soát việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức. Việc hoạch định chính sách trong một nền công vụ trông chờ vào sự tự giác của cán bộ, công chức, viên chức mà chưa tính đến nền công vụ phải có kiểm soát mang tính cưỡng chế. Có nghĩa là, đã thực hiện việc tổ chức kê khai thì bắt buộc phải thực hiện biện pháp giám sát, kiểm tra, xác minh và đưa ra kết luận về bản kê khai.

Thứ hai, nhiều người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa quan tâm đúng mực và chưa có trách nhiệm đến cùng với việc kê khai tài sản, thu nhập ở cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao phụ trách. Do đó, đơn vị chức năng tổ chức tiến hành việc việc kê khai một cách chiếu lệ, đối phó; những người có nghĩa vụ kê khai không quan tâm đến nội dung phải kê khai như thế nào cho đúng, cho chuẩn xác.

Thứ ba, ý thức chấp hành về kê khai tài sản, thu nhập trong một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa cao, chủ yếu vẫn dựa trên tinh thần tự giác. Do nhiều lý do nên không ít người đã tìm kẽ hở của pháp luật cũng như cách thức tổ chức việc kê khai tài sản, thu nhập để kê khai đối phó hoặc không trung thực.

Thứ tư, công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát tổ chức kê khai tài sản, thu nhập dường như còn bỏ trống. Thực tế nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị có tiến hành tổ chức việc kê khai tài sản, thu nhập nhưng không tổ chức bộ phận thanh tra, giám sát việc thực hiện. Bên cạnh đó, cấp trên cũng không có sự kiểm tra, giám sát thường xuyên.

Thứ năm, công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến, hướng dẫn các quy định pháp luật về vấn đề kê khai tài sản, thu nhập còn bị xem nhẹ và chưa được quan tâm nhiều.

4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản, thu nhập tăng thêm không giải trình được một cách hợp lý về nguồn gốc

Việt Nam đang gặp những khó khăn nhất định khi chưa có các quy định pháp luật để xử lý tài sản của cá nhân khi không chứng minh được tính trái pháp luật của hành vi vi phạm hoặc phạm tội có liên quan đến tài sản đó. Việc xác lập tội danh làm giàu bất hợp pháp có nghĩa là đảo ngược trách nhiệm chứng minh để cá nhân phải chứng minh tính hợp pháp đối với tài sản của họ. Nếu có thể giải thích tài sản đã được thủ đắc một cách hợp pháp thì sẽ không bị tịch thu. Khi áp dụng quy tắc đảo ngược trách nhiệm chứng minh đối với bị can, bị cáo phải chứng minh tính hợp pháp của tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.

Để xử lý tài sản, thu nhập tăng thêm không rõ nguồn gốc, có thể đưa ra 03 phương án như sau:

Phương án 1: Quy định tội danh làm giàu bất chính trong Bộ luật Hình sự

Theo đó, Bộ luật Hình sự sẽ được bổ sung một điều luật quy định về Tội làm giàu bất chính. Nếu lựa chọn phương án này, thì Việt Nam cần có lộ trình cho quá trình thực hiện, đặc biệt là hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung liên quan đến hệ thống đăng ký quyền sở hữu tài sản và quản lý dữ liệu về tài sản đăng ký; quy định về các biện pháp hạn chế giao dịch bằng tiền mặt và đảm bảo việc thanh toán không dùng tiền mặt trong xã hội; hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế và quản lý thông tin về người nộp thuế; tăng cường quản trị hệ thống ngân hàng và tháo gỡ khó khăn liên quan đến quy định về bí mật ngân hàng…

Đồng thời, lộ trình cũng cần đủ dài để các tổ chức, cá nhân đăng ký quyền sở hữu hoặc áp dụng các biện pháp đảm bảo quyền sở hữu của mình đối với các tài sản hiện có và với khẳng định không áp dụng quy định này đối với những tài sản được hình thành trước khi Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực pháp luật.

Phương án 2: Quy định tội làm giàu bất chính thông qua việc hình sự hóa hành vi vi phạm nghĩa vụ kê khai tài sản thu nhập tăng thêm và nghĩa vụ giải trình

Phương án này được đề xuất dựa trên thực tiễn pháp luật Việt Nam hiện nay khi đã quy định xử lý kỷ luật đối với hành vi kê khai tài sản, thu nhập hoặc giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm không trung thực. Theo đó, việc xử lý hành vi làm giàu bất chính dựa trên căn cứ là hành vi vi phạm của người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập theo quy định của pháp luật. Nếu thực hiện phương án này, Bộ luật Hình sự sẽ được bổ sung thêm 01 tội danh về kê khai tài sản, thu nhập và giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm không trung thực.

Nếu theo phương án này, thì quá trình thực hiện cũng sẽ có những thuận lợi nhất định khi có sự kết hợp giữa hoạt động xác minh tài sản, thu nhập của cơ quan thanh tra nhà nước hoặc cơ quan kiểm tra các cấp với các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc phân biệt ranh giới giữa xử lý hành chính và xử lý hình sự có thể căn cứ vào giá trị tài sản, thu nhập kê khai hoặc giải trình không trung thực. Đồng thời, yếu tố này cũng cần được quy định trong cấu thành cơ bản như đề cập ở trên. Bên cạnh đó, một số khó khăn khi thực hiện theo Phương án 1 cũng sẽ tương tự như đối với Phương án 2.

Phương án 3: Trước mắt chưa quy định tội làm giàu bất chính trong Bộ luật Hình sự mà chỉ xử lý về tài sản bất chính theo trình tự tố tụng dân sự

Trường hợp các biện pháp đảm bảo thực hiện không mang tính khả thi hoặc nhận thức giữa các cơ quan còn nhiều khác biệt, đặc biệt là trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự, thì trước mắt chưa quy định là tội phạm đối với hành vi làm giàu bất chính. Tuy nhiên, trong quá trình sửa đổi toàn diện Luật Phòng, chống tham nhũng trong thời gian tới, thì việc xử lý đối với phần tài sản tăng thêm mà không được giải trình một cách hợp lý cần phải được quy định. Theo đó, căn cứ kết quả xác minh tài sản, thu nhập đối với người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập mà không giải trình được một cách hợp lý về nguồn gốc tài sản tăng thêm, có quan có thẩm quyền xác minh phải ra kết luận về tính trung thực của người có nghĩa vụ giải trình. Trường hợp kết luận người đó không trung thực, thì cơ quan đã ra quyết định xác định chuyển vụ việc sang viện kiểm sát cùng cấp để khởi kiện vụ án dân sự.

Đồng thời, cũng cần bổ sung vào Luật Phòng, chống tham nhũng quy định về việc tài sản tăng thêm mà không được giải trình một cách hợp lý thì bị coi là tài sản bất hợp pháp và bị tịch thu sung công quỹ nhà nước sau khi có bản án, quyết định dân sự có hiệu lực của Toà án. Đồng thời, việc tịch thu tài sản bất chính cũng không thay thế hoặc loại trừ quá trình điều tra, truy tố và xét xử đối với người không giải trình được về nguồn gốc tài sản tăng thêm, nếu họ thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi tham nhũng khác có liên quan.

Nguyễn Thị Hương
Ban Nội chính Trung ương


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Nội chính Trung ương (2015), Báo cáo Thu hồi tài sản tham nhũng - Thực tiễn Việt Nam và Kinh nghiệm quốc tế.

2. Doig. A, Đào Lệ Thu, Hoàng Xuân Châu, Hình sự hóa hành vi tham nhũng: Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và vận dụng ở Việt Nam, Báo cáo nghiên cứu thảo luận chính sách, UNDP và DFID (Anh), tháng 10/2013.

3. Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng.

4. Đào Lệ Thu, Trần Văn Dũng, Trịnh Tiến Việt (2014), Báo cáo hoàn thiện các quy định về tội hối lộ trong Bộ luật hình sự Việt Nam – Từ góc độ so sánh luật, Tài liệu Hội thảo do Ban Nội chính Trung ương chủ trì, phối hợp với Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam.

5. Dự thảo Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình tại Phiên họp 27 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV.

6. Dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng ngày 17/8/2018.

7. Greenberg T.S., Samuel L.M., (2009), Stolen Asset Recovery: A Good Practices Guide for Non-Conviction Based Asset Forfeiture, WB and UNODC.

8. Báo cáo đánh giá tác động Dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) tháng 3/2018.

9. GS. Martin Painter, TS. Đào Lệ Thu, Hoàng Mạnh Chiến, Nguyễn Quang Ngọc (2012), Phân tích so sách pháp luật Phòng, chống tham nhũng quốc tế: Bài học về những cơ chế xử lý và thực thi cho Việt Nam, Một tài liệu thảo luận chính sách về Phòng, chống tham nhũng thực hiện bởi UKaid và UNDP.

10. Hoàng Nam Hải (2015), Bất cập trong quy định và thực hiện việc kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn theo Luật Phòng, chống tham nhũng, Tạp chí Tổ chức Nhà nước.

11. Jean-Pierre Brun, Larissa Gray, Clive Scott, Kevin M. Stephenson (2015), Cẩm nang về Thu hồi tài sản - Hướng dẫn dành cho người thực hiện, Sáng kiến Thu hồi tài sản bị đánh cắp, Ngân hàng Thế giới - UNODC.

12. Ngô Mạnh Hùng, Tăng cường hiệu lực các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng về phát hiện, xử lý tham nhũng.

13. Nguyễn Tuấn Anh, Thực tiễn triển khai thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng, hiệu quả, hạn chế, những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân.

14. Nguyễn Tuấn Anh, Xử lý hành vi làm giàu bất chính theo quy định của Công ước LHQ về chống tham nhũng (UNCAC) và phương án nào cho Việt Nam?

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Trong bối cảnh công nghệ số phát triển mạnh mẽ, việc bảo vệ dữ liệu cá nhân nói chung, đặc biệt là dữ liệu của trẻ em - đối tượng dễ bị tổn thương - trở thành vấn đề cấp thiết. Thời gian qua, mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em nhưng thực tế vẫn còn nhiều hạn chế, thách thức cần giải quyết. Bài viết tập trung phân tích khung pháp lý hiện hành của Việt Nam về bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em, đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế, đồng thời, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nhằm bảo đảm quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ em trong môi trường số.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Thực tiễn cho thấy, việc thể chế hóa chế định quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm Thi hành Hiến pháp năm 2013 đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng cũng còn hạn chế, khó khăn nhất định. Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân cần thực hiện đúng, đầy đủ trách nhiệm theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và thể chể hóa các chủ trương, chính sách mới của Đảng về đổi mới tư duy xây dựng, thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Bài viết phân tích các quy định về giới hạn và điều kiện áp dụng hình phạt trong luật nhân quyền quốc tế, qua đó, chứng minh luật nhân quyền quốc tế đặt ra những giới hạn và điều kiện về bản chất, mức độ, đối tượng, thủ tục áp dụng hình phạt trong tố tụng hình sự nhằm ngăn chặn sự lạm quyền trong việc phòng, chống tội phạm và thúc đẩy tính nhân đạo của tư pháp hình sự. Đồng thời, bài viết cũng khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm của Cộng hòa liên bang Đức, Na Uy, Canada và Nam Phi, qua đó, gợi ý một số cải cách để Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc góp phần hoàn thiện pháp luật về áp dụng hình phạt tiệm cận hơn với các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế về vấn đề này.
Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Xử phạt vi phạm hành chính là một trong những công cụ hữu hiệu để Nhà nước đấu tranh và phòng ngừa vi phạm hành chính. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính đang được sửa đổi và dự kiến thông qua tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV với nhiều điểm mới, đặc biệt là các quy định liên quan đến thủ tục xử phạt vi phạm hành chính. Bài viết phân tích, luận giải một số vấn đề như điều kiện xử phạt hành chính không lập biên bản, quyền giải trình đối với trường hợp xử phạt theo thủ tục không lập biên bản, thời hạn chuyển biên bản vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt, về người chứng kiến ký biên bản vi phạm hành chính và kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy về định thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Bài viết tập trung phân tích những vướng mắc, bất cập của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2017, 2020, 2022 (Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012) về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan.
Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Theo quy định pháp luật, thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc về Tòa án nhân dân cấp huyện. Để áp dụng biện pháp này, các cơ quan hành chính phải lập hồ sơ đề nghị để Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định cho phép thực hiện. Bài viết nghiên cứu, phân tích về thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đồng thời, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước.
Bất cập trong nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và đề xuất, kiến nghị

Bất cập trong nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và đề xuất, kiến nghị

Bài viết chỉ ra những bất cập về nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và từ đó, đề xuất kiến nghị giúp khắc phục bất cập trong công tác xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức.
Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.

Theo dõi chúng tôi trên:

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm