Thứ hai 23/06/2025 11:53
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Kiểm soát của lập pháp đối với hành pháp ở Cộng hòa Pháp và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tại Cộng hòa Pháp, quyền lập pháp thuộc về Nghị viện, gồm Thượng viện và Hạ viện nhưng “quyền lực, ảnh hưởng chính trị của Nghị viện hiện nay thực chất tập trung ở Hạ viện”[1], còn quyền hành pháp thuộc về nguyên thủ quốc gia (Tổng thống) và Chính phủ (đứng đầu là Thủ tướng).

1. Kiểm soát của lập pháp đối với hành pháp ở Cộng hòa Pháp
Tuy nhiên, “Tổng thống Pháp (nguyên thủ quốc gia) mới là người nắm quyền hành pháp một cách thực chất”[2]. Sự kiểm soát của Nghị viện - lập pháp đối với Tổng thống và Chính phủ - hành pháp được thể hiện qua nhiều phương thức. Cụ thể:

Thứ nhất, lập pháp kiểm soát hành pháp thông qua cách hình thành hành pháp

Một trong những nội dung của việc kiểm soát hành pháp chính là kiểm soát về quy trình, cách thức hình thành nhân sự và cơ cấu tổ chức của hành pháp, vì việc kiểm soát được sự lựa chọn, hình thành bộ máy hành pháp, tạo cơ sở cho việc kiểm soát hoạt động của hành pháp. Theo đó, sự kiểm soát của lập pháp đối với cách hình thành hành pháp ở Cộng hòa Pháp được thể hiện như sau:

- Chính phủ Cộng hòa Pháp được thành lập trên cơ sở Nghị viện. Tức là, sau cuộc bầu cử Nghị viện, đảng nào chiếm đa số ghế đại biểu ở Nghị viện thì đảng đó sẽ đứng ra thành lập Chính phủ[3]. Bên cạnh đó, dù theo quy định của Hiến pháp năm 1958 của Pháp, Thủ tướng là do Tổng thống bổ nhiệm nhưng trên thực tế, Tổng thống Pháp “không thể bổ nhiệm một người nào đó khác hơn nếu như người đó không là thủ lĩnh của liên minh cầm quyền”[4]. Như vậy, Chính phủ Pháp được hình thành và hoạt động trên cơ sở tín nhiệm, ủng hộ của Nghị viện Pháp. Đây là lý do vì sao Nghị viện có quyền chất vấn, bỏ phiếu bất tín nhiệm và thậm chí là giải tán Chính phủ.

- Trong trường hợp khuyết Tổng thống thì Chủ tịch Thượng viện sẽ tạm thời thực hiện các nhiệm vụ của Tổng thống (Điều 7 Hiến pháp năm 1958). Quy định này cho thấy, khi chức danh Tổng thống bị khuyết thì vai trò của Nghị viện trong việc kiểm soát hoạt động của hành pháp là rất lớn, nhằm hạn chế tối đa việc trao toàn bộ quyền hành pháp cho Thủ tướng dù chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn từ 20 đến 35 ngày[5].

Thứ hai, lập pháp kiểm soát hành pháp thông qua chất vấn

Theo Điều 48 Hiến pháp năm 1958 của Pháp, mỗi tuần, Nghị viện Pháp phải dành ít nhất một buổi họp để các nghị sĩ chất vấn thành viên Chính phủ. Trên thực tế, việc chất vấn Chính phủ thường được tiến hành vào đầu giờ phiên họp buổi chiều ngày thứ tư[6].

Về hình thức, chất vấn bao gồm chất vấn bằng văn bản[7] và chất vấn miệng. Theo đó, đối với hình thức chất vấn bằng văn bản, sau khi nhận được câu hỏi bằng văn bản, các bộ trưởng sẽ trả lời bằng văn bản và câu trả lời này được đăng trên công báo trong thời hạn một tháng. Tuy nhiên, chỉ có “khoảng 85% đến 90% số câu hỏi nhận được câu trả lời, song có những vấn đề mặc dù có câu hỏi nhưng không bao giờ nhận được câu trả lời”[8]. Đối với hình thức chất vấn miệng, các câu hỏi và câu trả lời sẽ được tiến hành trong phiên chất vấn của buổi họp mỗi tuần. Câu hỏi chất vấn miệng thường gồm ba loại, đó là câu hỏi không kèm việc thảo luận, câu hỏi có kèm theo việc thảo luận và câu hỏi của đảng đoàn Nghị viện[9].

Về hậu quả pháp lý, sau khi kết thúc chất vấn, Nghị viện đưa ra nghị quyết để bày tỏ quan điểm ủng hộ hay phản đối hoạt động của Chính phủ. Trong trường hợp Nghị viện đưa ra nghị quyết bất tín nhiệm thì có thể dẫn đến sự từ chức của Chính phủ.

Thứ ba, lập pháp kiểm soát hành pháp thông qua bỏ phiếu bất tín nhiệm

Theo quy định tại Điều 49 Hiến pháp năm 1958 của Pháp, việc bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ chỉ được tiến hành khi có chữ ký của ít nhất 10% số thành viên Hạ viện. Tuy nhiên, sau khi có kiến nghị này thì việc bỏ phiếu bất tín nhiệm không được tiến hành ngay, vì theo Điều 49, việc bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ chỉ được tổ chức sau 48 giờ, kể từ lúc trình kiến nghị. Thiết nghĩ, quy định này một mặt tạo điều kiện cho Nghị viện và Chính phủ “tìm kiếm những thỏa hiệp cần thiết”[10], mặt khác, đảm bảo các hạ nghị sĩ có thời gian để cân nhắc về hậu quả của việc bất tín nhiệm Chính phủ, từ đó, đưa ra được những quyết định sáng suốt, thận trọng hơn.

Về điều kiện thông qua và hậu quả pháp lý, theo Điều 49 Hiến pháp năm 1958, việc bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ được thông qua khi đạt đa số phiếu của các hạ nghị sĩ. Theo Điều 50 Hiến pháp năm 1958, nếu Hạ viện thông qua việc bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ thì Thủ tướng phải đệ đơn từ chức của Chính phủ lên Tổng thống, vì hậu quả pháp lý này khá gay gắt nên Hiến pháp quy định một nghị sĩ không thể đứng tên đề xuất quá ba kiến nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ trong một kỳ họp thường lệ của Hạ viện và không thể quá một kiến nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ trong kỳ họp bất thường của Hạ viện (Điều 49).

Tuy nhiên, trên thực tế, Nghị viện Pháp rất ít khi thông qua nghị quyết bất tín nhiệm Chính phủ. Nguyên nhân của thực trạng này xuất phát từ ảnh hưởng của đảng phái chính trị[11] cũng như sự thỏa hiệp cùng tồn tại giữa Nghị viện và Chính phủ[12]. Chính vì điều này, cho đến nay, nước Pháp chỉ có duy nhất một lần việc bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Chính phủ được Hạ viện thông qua. Đó là lần bỏ phiếu bất tín nhiệm vào năm 1962 đối với Chính phủ của Thủ tướng Georges Pompidou[13].

Thứ tư, lập pháp kiểm soát hành pháp thông qua hoạt động của các Ủy ban

Ở Pháp, các Ủy ban đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát của lập pháp đối với hành pháp, chẳng hạn như: Ủy ban Điều tra, Ủy ban Đối ngoại, Ủy ban Tài chính, Ủy ban Đánh giá và kiểm tra chính sách công…

- Về Ủy ban Điều tra: Hoạt động của Ủy ban điều tra có tính chất lâm thời bởi Ủy ban này sẽ giải tán sau sáu tháng điều tra hoặc sẽ phải ngừng hoạt động khi có văn bản khởi tố vụ việc mà Ủy ban điều tra đang xem xét. Nhiệm vụ của Ủy ban này là điều tra, thu thập các thông tin về những vấn đề mà Nghị viện quan tâm, liên quan đến hoạt động của Chính phủ[14]. Sau khi kết thúc hoạt động điều tra, Ủy ban này sẽ trình báo cáo điều tra lên Nghị viện với các nội dung mang tính chất khuyến nghị, chứ không có giá trị bắt buộc và quyết định.

- Về Ủy ban Đối ngoại: Vai trò của Ủy ban này trong việc giúp lập pháp kiểm soát hành pháp được thể hiện qua hoạt động thẩm định các dự luật phê chuẩn điều ước quốc tế, các dự chi ngân sách cho lĩnh vực đối ngoại và thông qua việc tiến hành các cuộc điều trần[15] với quyền triệu tập Thủ tướng, các bộ trưởng liên quan đến đối ngoại[16], các quan chức ngoại giao cấp cao, các chuyên gia.

- Về Ủy ban Tài chính: Vào đầu mỗi nhiệm kỳ, Ủy ban Tài chính chỉ định nghị sĩ phụ trách về ngân sách của bộ. Thông thường, nghị sĩ được chỉ định không là thành viên của Ủy ban tài chính, mà là thành viên của Ủy ban có thẩm quyền liên quan đến bộ do mình phụ trách. Mỗi nghị sĩ sẽ xem xét ngân sách của một bộ trong suốt nhiệm kỳ của mình. Tuy nhiên, “vai trò của các nghị sĩ này chỉ dừng lại ở mức độ là người tư vấn”[17], còn quyền quyết định vẫn thuộc về Nghị viện.

Thứ năm, lập pháp kiểm soát hành pháp thông qua xét xử

Xét xử là một trong những phương thức quan trọng để lập pháp kiểm soát hành pháp. Nếu như Nghị viện Pháp chỉ có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ, không thể bỏ phiếu bất tín nhiệm Tổng thống thì với phương thức này, Nghị viện Pháp có thể xét xử cả Tổng thống và các thành viên của Chính phủ. Theo đó, Tổng thống Pháp chỉ bị xét xử khi “phạm tội phản quốc hoặc âm mưu xâm hại an toàn của Nhà nước”[18]. Một trong hai viện sẽ tiến hành buộc tội và nếu việc buộc tội được thông qua thì Nghị viện thành lập một Tòa án đặc biệt để xét xử Tổng thống. Nếu có hai phần ba số thành viên của Tòa án này biểu quyết đồng ý cách chức Tổng thống thì Tòa án ra phán quyết cách chức Tổng thống. Phán quyết này có hiệu lực ngay lập tức[19].

Bên cạnh đó, các thành viên của Chính phủ cũng phải chịu trách nhiệm hình sự đối với các tội nghiêm trọng. Việc xét xử các thành viên của Chính phủ sẽ được tiến hành bởi Tòa án công lý của Cộng hòa Pháp. Tòa án này bao gồm 15 thành viên, trong đó, có 12 nghị sĩ và ba thẩm phán, một trong những người này sẽ làm chủ tọa. Theo đó, khi bất cứ một người nào bị thiệt hại do hành vi phạm tội của thành viên Chính phủ gây ra trong khi thi hành công vụ thì người đó có quyền gửi đơn kiện lên một Ủy ban giải quyết đơn thư khiếu nại. Ủy ban này có quyền quyết định đình chỉ vụ việc hoặc chuyển hồ sơ sang Viện trưởng Viện công tố để chuyển đến Toà án công lý Cộng hoà[20].

Ngoài việc sử dụng các phương thức cơ bản trên, việc kiểm soát của lập pháp đối với hành pháp còn được đảm bảo khách quan, hiệu quả bởi nguyên tắc “bất khả kiêm nhiệm” (Điều 23 Hiến pháp năm 1958) và “bất khả xâm phạm nghị sĩ” (Điều 26 Hiến pháp năm 1958). Theo nguyên tắc “bất khả kiêm nhiệm”, thành viên của Chính phủ không được đồng thời kiêm nhiệm nghị sĩ. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo tính khách quan của sự kiểm soát của lập pháp đối với hành pháp ở Cộng hòa Pháp. Còn theo nguyên tắc “bất khả xâm phạm nghị sĩ” thì nghị sĩ không thể bị truy tố, điều tra, bắt giữ, xét xử vì những ý kiến phát biểu khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo nghị sĩ có thể tự do phát biểu quan điểm của mình[21], đặc biệt là trong hoạt động chất vấn.

2. Kinh nghiệm cho Việt Nam

Qua nghiên cứu về sự kiểm soát của lập pháp đối với hành pháp ở Cộng hòa Pháp, có thể rút ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam hiện nay, cụ thể:

Thứ nhất, về hậu quả pháp lý của chất vấn. Không chỉ có Pháp mà hầu hết ở các nước khác, sau khi kết thúc phiên chất vấn hành pháp, Nghị viện sẽ thể hiện thái độ ủng hộ, không ủng hộ, tín nhiệm hay không tín nhiệm đối với hành pháp thông qua sự biểu quyết của từng nghị sĩ. Tuy nhiên, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015, mặc dù sau phiên chất vấn, Quốc hội ra nghị quyết về chất vấn, nhưng nghị quyết này vẫn chưa có nội dung thể hiện được thái độ ủng hộ hay không ủng hộ của Quốc hội đối với việc trả lời chất vấn của các thành viên Chính phủ. Đây là vấn đề mà nước ta cần tham khảo kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp khi quy định về hậu quả pháp lý của việc chất vấn, nhằm đảm bảo được mục đích của chất vấn.

Thứ hai, về quy định việc bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ chỉ được tổ chức sau 48 giờ kể từ lúc trình kiến nghị tại Điều 49 Hiến pháp năm 1958 của Cộng hòa Pháp. Như đã phân tích, quy định này có ý nghĩa trong việc tạo điều kiện cho Nghị viện và Chính phủ có những thỏa thuận cần thiết cũng như giúp các nghị sĩ suy nghĩ thận trọng hơn về những hậu quả có thể xảy ra khi việc bỏ phiếu bất tín nhiệm thành công, Chính phủ phải từ chức. Vì thế, đây là một kinh nghiệm mà nước ta có thể nghiên cứu để tiếp thu trong quá trình hoàn thiện chế định bỏ phiếu tín nhiệm.

Thứ ba, về vai trò của các Ủy ban. Từ thực tiễn của Cộng hòa Pháp có thể thấy, các Ủy ban đóng vai trò quan trọng trong việc giúp lập pháp kiểm soát hành pháp. Tham khảo kinh nghiệm này, nước ta cần nghiên cứu để nâng cao hiệu quả hoạt động của các Ủy ban theo hướng trao cho Ủy ban đủ thẩm quyền để đảm bảo Ủy ban thực hiện đúng nhiệm vụ của mình cũng như thành lập các Ủy ban theo lĩnh vực chuyên sâu hơn.

Thứ tư, về nguyên tắc “bất khả kiêm nhiệm” ở Cộng hòa Pháp. Có thể thấy, một trong những yếu tố cơ bản để đảm bảo sự khách quan trong hoạt động kiểm soát là chủ thể kiểm soát và đối tượng kiểm soát phải có sự tách bạch. Tuy nhiên, thực tế nước ta hiện nay, hầu hết các thành viên của Chính phủ đều là đại biểu Quốc hội. Điều này đã làm giảm đi phần nào tính khách quan trong hoạt động kiểm soát của Quốc hội đối với Chính phủ. Vì thế, thiết nghĩ, trong thời gian tới, chúng ta nên tham khảo nguyên tắc trên ở Cộng hòa Pháp để hạn chế việc các thành viên của Chính phủ là đại biểu Quốc hội, nhằm đảm bảo tính khách quan trong sự kiểm soát của Quốc hội đối với Chính phủ.

Thứ năm, về nguyên tắc “bất khả xâm phạm nghị sĩ”. Có thể thấy, việc đại biểu Quốc hội được miễn trừ về những hậu quả pháp lý đối với phát biểu của mình là điều kiện cần thiết để Quốc hội thực hiện tốt sự kiểm soát đối với Chính phủ. Bởi lẽ, nếu đại biểu Quốc hội không thể tự do phát biểu về các vấn đề đang được thảo luận tại Quốc hội hay các chất vấn đối với Chính phủ thì đại biểu Quốc hội không thể truy cứu được “tới cùng” đối với trách nhiệm của Chính phủ, từ đó làm giảm hiệu quả kiểm soátChính phủ. Tuy nhiên, pháp luật nước ta hiện nay vẫn chưa quy định về quyền miễn trừ này của đại biểu Quốc hội. Vì thế, thiết nghĩ, trong thời gian tới, nước ta cần nghiên cứu để bổ sung các quy định về quyền miễn trừ của đại biểu Quốc hội đối với các phát biểu của đại biểu đó trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp cũng như các quốc gia khác trên thế giới.

Trương Thị Minh Thùy

Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh


[1] Nguyễn Văn Huyên (2007), Hệ thống chính trị Anh, Pháp, Mỹ (Mô hình tổ chức và hoạt động), Nxb. Lý luận chính trị, tr. 157.

[2] Trần Quốc Việt (2015), “Hoạt động kiểm soát quyền hành pháp của Nghị viện các nước Anh, Pháp, Mỹ”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 3, tr. 57.

[3] Vũ Hồng Anh (2001), Tổ chức và hoạt động của Nghị viện ở một số nước trên thế giới, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 169.

[4] Nguyễn Đăng Dung (2009), Nhà nước là những con số cộng giản đơn, Nxb. Lao động, tr. 211.

[5] Vì khi Chủ tịch Thượng viện không thể thực hiện được thì Thủ tướng mới là người thay thế vị trí Tổng thống bị khuyết.

[6] Vũ Đình Nam, Hoạt động giám sát của Nghị viện một số nước trên thế giới, http://caicachhanhchinh.gov (truy cập ngày 08/6/2017).

[7] Hình thức chất vấn bằng văn bản được bổ sung từ năm 1910.

[8] Mai Xuân Bình (2000), “Giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ theo Hiến pháp năm 1958 của Cộng hòa Pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5, tr.81.

[9] Vũ Hồng Anh (2001), Tổ chức và hoạt động của Nghị viện ở một số nước trên thế giới, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 171.

[10] Trương Hồ Hải (2015), “Giám sát của Quốc hội đối với tổ chức bộ máy nhà nước trên thế giới và những giá trị tham khảo cho Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 5, tr. 24.

[11] Ở Pháp, Chính phủ được thành lập và hoạt động dựa trên sự tín nhiệm, ủng hộ của đảng chiếm đa số ghế trong Nghị viện. Vì thế, không có lý do gì để các nghị sĩ là thành viên của đảng này lại bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ theo đề nghị của đảng khác.

[12] Khi Nghị viện bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ thì Nghị viện lại có nguy cơ bị giải tán bởi Tổng thống.

[13] Mai Xuân Bình (2000), “Giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ theo Hiến pháp năm 1958 của Cộng hòa Pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5, tr.83.

[14] Mai Xuân Bình (2000), “Giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ theo Hiến pháp năm 1958 của Cộng hòa Pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5, tr.81.

[15]Tuy nhiên, các buổi điều trần này chỉ có tính chất đối thoại giữa cơ quan hành pháp và cơ quan lập pháp, chứ không mở cửa cho công chúng tham dự.

[16] Các bộ trưởng liên quan đến đối ngoại như: Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng các vấn đề về EU, Bộ trưởng phụ trách Hợp tác và Pháp ngữ...

[17] Nguyễn Sĩ Dũng (2014), Tổ chức và hoạt động của Nghị viện các nước trên thế giới, Tài liệu lưu hành nội bộ, tr. 287.

[18] Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước, Nxb. Tư pháp, tr. 204.

[19] Điều 68 Hiến pháp năm 1958: “The High Court shall be presided over by the President of the National Assembly. It shall give its ruling as to the removal from office of the President, by secret ballot, within one month. Its decision shall have immediate effect.Rulings given hereunder shall require a majority of two thirds of the members of the House involved or of the High Court”.

[20] Điều 68 Hiến pháp năm 1958: Members of Government “shall be tried by the Court of Justice of the Republic”. “The Court of Justice of the Republic shall consist of fifteen members: twelve Members of Parliament, elected in equal number from among their ranks by the National Assembly and the Senate after each general or partial renewal by election of these Houses, and three judges of the Cour de cassation, one of whom shall preside over the Court of Justice of the Republic.

Any person claiming to be a victim of a serious crime or other major offence committed by a member of the Government in the holding of his office may lodge a complaint with a petitions committee.This committee shall order the case to be either closed or forwarded to the Chief Public Prosecutor at the Cour de cassation for referral to the Court of Justice of the Republic.”.

[21] Nguyễn Văn Huyên (2007), Hệ thống chính trị Anh, Pháp, Mỹ (Mô hình tổ chức và hoạt động), Nxb. Lý luận chính trị, tr. 160.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm