Thứ bảy 14/06/2025 01:55
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số vấn đề pháp lý về quyền tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2015

Bài viết phân tích một số khái niệm về quyền tài sản, trên cơ sở đó nhận diện các quyền tài sản là một dạng tài sản. Bên cạnh đó, bài viết tập trung phân tích các quyền tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2015, phân biệt quyền tài sản là một loại tài sản với quyền tài sản chỉ là một vật quyền, đặc biệt chỉ ra sự khác biệt giữa loại tài sản này và các quyền khác đối với tài sản.

Bài viết phân tích một số khái niệm về quyền tài sản, trên cơ sở đó nhận diện các quyền tài sản là một dạng tài sản. Bên cạnh đó, bài viết tập trung phân tích các quyền tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2015, phân biệt quyền tài sản là một loại tài sản với quyền tài sản chỉ là một vật quyền, đặc biệt chỉ ra sự khác biệt giữa loại tài sản này và các quyền khác đối với tài sản.

Quyền tài sản (QTS) là một khái niệm có nhiều quan điểm khác nhau, việc phân biệt QTS là một dạng tài sản với các quyền khác đối với tài sản nói chung theo nghĩa rộng (vật quyền) và với các quyền khác đối với tài sản theo luật thực định (được luật thực định ghi nhận cụ thể) không phải lúc nào cũng dễ dàng. Sự biểu hiện đa dạng của các vật quyền trên tài sản tạo ra ranh giới mong manh trong sự phân định QTS là một loại tài sản với các vật quyền khác không là đối tượng tài sản. Bên cạnh đó, trong xã hội công nghệ hiện đại, với sự xuất hiện ngày càng nhiều loại tài sản mới dưới dạng QTS đòi hỏi nhà làm luật cần có những quy định kịp thời để điều chỉnh các giao dịch liên quan đến các tài sản mới này. Do vậy, việc làm rõ các vấn đề nêu trên về QTS là rất cần thiết.

1. Nhận diện quyền tài sản là một loại tài sản

Xét về mặt khoa học pháp lý thì chưa có một khái niệm chính thống về QTS. Hiện nay đang tồn tại những quan điểm khác nhau về QTS.

Có quan điểm cho rằng, “quyền tài sản có thể được hiểu theo nghĩa rộng là tổng hợp các quyền và lợi ích của chủ thể trong việc chi phối, kiểm soát tài sản gồm chủ sở hữu và người có quyền khác với tài sản”[1]. Qua đây, có thể thấy, ý kiến này nhìn nhận QTS theo nghĩa rộng, không chỉ bao gồm quyền sở hữu mà bao gồm bất cứ quyền và lợi ích nào khác có giá trị kinh tế và thuộc về một chủ thể nhất định.

Theo Giáo trình của Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, “quyền tài sản là một dạng tài sản đặc thù, không tồn tại dưới dạng vật chất hữu hình, là một loại quyền dân sự có nội dung kinh tế, có thể trị giá được bằng tiền, do chủ thể có quyền tự mình thực hiện hoặc yêu cầu người khác thực hiện nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của người có quyền”[2]. Định nghĩa này đã khái quát dấu hiệu của QTS ở khía cạnh là một dạng tài sản, đó là quyền dân sự có tính chất vô hình và có thể trị giá được bằng tiền. Như vậy, dù không thể hiện tường minh, nhưng khi xem xét ở khía cạnh quyền, QTS theo định nghĩa chỉ bao gồm quyền sở hữu (do là một dạng tài sản) đối với những thứ vô hình, không bao hàm các quyền và lợi ích khác, tức những vật quyền chưa được xem là tài sản. Định nghĩa cũng nêu lên cách thức tác động của chủ thể có QTS là có thể tự mình thực hiện quyền (quyền đối vật) hoặc yêu cầu người khác thực hiện (quyền đối nhân).

Tại Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 105 đã khẳng định QTS là một loại tài sản và được cụ thể hóa tại Điều 115 như sau: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Định nghĩa đã không chỉ ra đầy đủ những đặc trưng để nhận diện tài sản ngoài dấu hiệu “trị giá được bằng tiền”, không giúp phân biệt được QTS là một loại tài sản và các quyền khác đối với tài sản. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã xây dựng các quy định về các quyền khác đối với tài sản bên cạnh quyền sở hữu đã cho thấy một bước tiến mới trong chế định tài sản nói chung, QTS nói riêng.

Một QTS như thế nào thì được xem là tài sản? Theo một định nghĩa về tài sản trong quyển Deluxe Black‘s Law Dictionary, “tài sản là một từ để chỉ mọi thứ là đối tượng của quyền sở hữu”[3]. Với quy định hiện hành ở Việt Nam, quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt[4]. Như vậy, một thứ là đối tượng của quyền sở hữu có nghĩa là thứ đó có thể được chiếm hữu, sử dụng, định đoạt bởi một chủ thể nào đó[5]. Ở nhiều nước trên thế giới, quyền sở hữu gồm quyền sử dụng và quyền định đoạt, việc chiếm hữu tài sản được pháp luật các nước quy định như là một tình trạng thực tế đối với tài sản[6]. Theo học thuyết của Harold Demsetz và thực tiễn đã cho thấy, một QTS có thể được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau. QTS có thể được nhiều người khác nhau thực hiện và trong những trường hợp cụ thể, “việc thực hiện các quyền trên không có ý nghĩa và thích hợp cho việc xác lập quyền sở hữu”[7]. Từ đó, với cách nhìn này cho phép chúng ta lý giải việc các quyền thế chấp, cầm cố, chuyển nhượng, ưu tiên thanh toán, truy đòi tài sản và các quyền khác ở mức độ nào đó có thể hiểu có giá trị kinh tế nhưng không được xem là tài sản.

Bên cạnh đó, việc xác định các quyền nào là đối tượng của quyền sở hữu còn phụ thuộc vào các nhà lập pháp của mỗi quốc gia. Chẳng hạn, theo pháp luật Việt Nam, quyền hưởng dụng không được coi là đối tượng của quyền sở hữu, đó là những quyền được xác lập trên tài sản của người khác, đó là một bộ phận trong các quyền của chủ sở hữu đối với tài sản mà không được tách ra thành một tài sản độc lập với đầy đủ các quyền năng của chủ sở hữu; người có quyền hưởng dụng không được ghi nhận quyền được bán, cầm cố hoặc thế chấp quyền hưởng dụng[8] nên chủ thể không thể thực hiện quyền này[9]. Tuy nhiên, theo pháp luật Pháp, quyền hưởng dụng cũng là một quyền được xác lập trên tài sản của người khác, nhưng luật của Pháp đã khẳng định người có quyền hưởng dụng có thể bán quyền hưởng dụng, điều này cho thấy, quyền hưởng dụng bản thân nó cũng là đối tượng của quyền sở hữu, là một tài sản[10]. Hoặc theo pháp luật Việt Nam, quyền sử dụng đất là tài sản dưới dạng QTS, nhưng theo pháp luật của nhiều nước trên thế giới, quyền sử dụng đất là một quyền năng trong quyền sở hữu đất đai.

2. Quyền tài sản và các quyền khác đối với tài sản theo Bộ luật Dân sự năm 2015

Mặc dù Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 xác định QTS là “quyền trị giá được bằng tiền” nhưng không phải bất cứ quyền nào trị giá được bằng tiền cũng được xem là đối tượng tài sản, nói cách khác là không xác lập cho chủ thể quyền được quyền sở hữu đối với QTS đó mà thuần túy chỉ là một vật quyền, là một bộ phận của quyền sở hữu. Điều 159 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã ghi nhận ba loại vật quyền gọi là “quyền khác đối với tài sản”, là những quyền của chủ thể được xác lập trên tài sản “thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác” gồm quyền hưởng dụng, quyền bề mặt, quyền đối với bất động sản liền kề. Đây là những quyền được tách ra từ quyền sở hữu để trở thành quyền độc lập[11]. Nổi bật là quyền hưởng dụng và quyền bề mặt là những quyền có thể định giá được thành tiền và có thể dễ dàng chuyển giao trong giao lưu dân sự[12].

Đối với quyền bề mặt, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã ghi nhận quyền của chủ thể có quyền bề mặt thông qua quy định nội dung của quyền bề mặt tại Điều 271, bên cạnh việc tự mình khai thác sử dụng bề mặt, cũng như có quyền sở hữu tài sản được tạo ra từ việc khai thác, sử dụng này, người có quyền bề mặt còn có thể chuyển giao một phần hoặc toàn bộ quyền bề mặt. Như vậy, chủ thể của quyền bề mặt có thể chuyển quyền sở hữu tài sản và quyền khai thác mặt nước, mặt đất, lòng đất cho người khác thông qua các giao dịch như mua bán, tặng cho, thế chấp, trao đổi tài sản. Đối với quyền hưởng dụng, theo Điều 261 Bộ luật Dân sự năm chỉ cho phép người có quyền hưởng dụng cho thuê quyền hưởng dụng. Đồng thời, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng đã quy định chủ thể có quyền khác đối với tài sản được thực hiện mọi hành vi “trong phạm vi quyền được quy định” tại Bộ luật này, luật khác có liên quan. Trong khi đó, chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng “không được trái với quy định của luật”[13]. Điều này cũng đồng nghĩa người có quyền hưởng dụng không thể chuyển nhượng, chuyển đổi hay thế chấp quyền hưởng dụng do không được luật quy định. Quyền hưởng dụng có thể chuyển giao khá dễ dàng, cách thức xác lập quyền tương tự như quyền bề mặt nhưng luật không cho phép chuyển giao như quyền bề mặt. Khác với Việt Nam, theo pháp luật Pháp, quyền hưởng dụng cũng là một quyền được xác lập trên tài sản của người khác[14], nhưng luật của Pháp đã khẳng định mạnh mẽ quyền của người hưởng dụng không chỉ có thể cho thuê quyền hưởng dụng mà thậm chí có thể bán quyền hưởng dụng[15]. Thiết nghĩ, pháp luật Việt Nam cũng nên ghi nhận quyền định đoạt của chủ thể có quyền hưởng dụng như là chủ sở hữu một tài sản độc lập, tức có thể chuyển đổi, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố quyền hưởng dụng.

Có thể thấy, đối với quyền hưởng dụng, quyền đối với bất động sản liền kề, luật quy định quyền của chủ thể khá hạn chế, ví dụ, chủ thể của quyền hưởng dụng có thể cho thuê quyền hưởng dụng và chỉ được hưởng dụng trong thời gian nhất định; hoặc quyền đối với bất động sản liền kề sẽ được chuyển giao cho người nhận chuyển nhượng bất động sản có quyền đó, chủ thể có quyền đối với bất động sản liền kề hoàn toàn không thể định đoạt quyền này một cách độc lập. Tuy nhiên, đối với quyền bề mặt, luật đã ghi nhận chủ thể quyền có thể chuyển giao quyền bề mặt, điều đó được hiểu chủ thể của quyền bề mặt có quyền định đoạt quyền bề mặt theo ý chí của mình[16]. Do đó, mặc dù được tách ra từ quyền sở hữu, nhưng với quyền năng của chủ thể mang quyền bề mặt, ở một mức độ nhất định, nhà làm luật đã xem quyền bề mặt là đối tượng của quyền sở hữu, là một loại tài sản dưới dạng QTS, mặc dù nó được tách ra từ một tài sản khác là quyền sử dụng đất. Hoặc cũng có thể hiểu nhà làm luật đã quy định quyền này như một ngoại lệ, đặc quyền của quyền khác đối với tài sản. Điểm khác biệt so với các chủ sở hữu khác là chủ thể của quyền bề mặt chỉ có quyền này trong một thời hạn nhất định.

3. Xác định phạm trù quyền tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2015

Như đã trình bày, QTS theo nghĩa rộng có thể bao gồm quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản (gọi ngắn gọn là quyền đối với tài sản hay vật quyền). Những thứ vô hình là đối tượng của quyền sở hữu với những đặc trưng nêu trên được gọi là tài sản dạng quyền tài sản, ở Việt Nam, quyền này quy định tại Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015. Đối với các vật quyền trên tài sản, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã lựa chọn ba loại vật quyền để điều chỉnh riêng biệt tại Điều 159 Bộ luật Dân sự năm 2015, gọi là các “quyền khác đối với tài sản”, được tách ra từ quyền sở hữu, ghi nhận song song, bên cạnh quyền sở hữu. Như vậy, có thể thấy, quyền đối với tài sản theo luật thực định Việt Nam bao gồm quyền sở hữu đối với những thứ vô hình (được hiểu là một loại tài sản), các quyền khác đối với tài sản theo Điều 159 Bộ luật Dân sự năm 2015 và những vật quyền khác. Các vật quyền này có thể chuyển hóa thành tài sản khi được pháp luật thừa nhận.

Theo Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Qua nghiên cứu chế định QTS, có thể liệt kê một số QTS là một dạng tài sản như sau: Quyền đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất, quyền đòi nợ, QTS phát sinh từ hợp đồng, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng, quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên, quyền đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm[17]. Ngoài ra, khi Bộ luật Dân sự năm 2015 đã không buộc QTS phải là quyền có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự thì các quyền như quyền được cấp dưỡng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe, danh dự và các QTS khác là những quyền trị giá được thành tiền, dù không thể chuyển giao trong giao lưu dân sự cũng được xem là QTS.

“Các quyền tài sản khác” tại Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 có thể liệt kê một số quyền như sau: Quyền đòi nợ[18], quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên[19], QTS phát sinh từ hợp đồng; quyền được nhận số tiền bảo hiểm, QTS đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp[20], quyền sử dụng khu vực biển được giao để nuôi trồng thủy sản[21], quyền được cấp dưỡng, quyền được bồi thường thiệt hại và các QTS khác được pháp luật quy định.

Trong Thông tư số 08/2018/TT-BTP ngày 20/6/2018 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm, hợp đồng và trao đổi thông tin về đăng ký biện pháp bảo đảm tại các trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản của cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp, thì bên cạnh liệt kê một số quyền chung còn liệt kê QTS trong một số trường hợp cụ thể, trong đó, các QTS phát sinh từ hợp đồng như quyền đòi nợ, quyền yêu cầu thanh toán…; một số QTS phát sinh từ một số hợp đồng cụ thể liên quan đến tàu bay, tàu biển và QTS liên quan đến hợp đồng về nhà ở (điểm b, điểm c khoản 7 Điều 6). Thông tư này đã giúp xác định cụ thể hơn các tài sản là QTS theo Bộ luật Dân sự năm 2015. Tuy nhiên, Thông tư đã có một số quy định trùng lặp về quyền đòi nợ. Quyền đòi nợ có thể phát sinh từ hợp đồng vay, các loại hợp đồng khác hoặc phát sinh từ các căn cứ khác. Thông tư trên đã quy định quyền đòi nợ chung chung tại điểm a khoản 7 Điều 6 và liệt kê quyền đòi nợ là một dạng QTS phát sinh từ một số hợp đồng cụ thể tại điểm b, điểm c khoản 7 Điều 6 (không nhắc đến quyền đòi nợ phát sinh từ hợp đồng vay). Có thể thấy, chưa có sự nhất quán và rõ ràng trong quy định này, vừa thừa lại vừa thiếu. QTS phát sinh từ hợp đồng không được ghi nhận theo hướng khái quát nhưng liệt kê thì không đầy đủ (ví dụ, không nhắc đến quyền được bồi thường thiệt hại không phát sinh từ hợp đồng). Thiết nghĩ, quy định QTS trong Thông tư này cần sắp xếp logic và đầy đủ hơn.

Có thể thấy, mặc dù QTS được xác định là “quyền trị giá được bằng tiền”, nhưng thực chất có những thứ trị giá được bằng tiền nhưng pháp luật Việt Nam chưa cho phép hoặc chưa có hành lang pháp lý điều chỉnh giao dịch liên quan đối tượng đấy. Đặc biệt, trong kỷ nguyên công nghệ số, những thứ “có thể trị giá được bằng tiền” ngày càng đa dạng và phong phú.

Huỳnh Anh
Đại học An Giang trực thuộc Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh


[1] Trích theo Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (đồng chủ biên) (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb. Công an nhân dân, tr. 228.

[2] Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế (tái bản có sửa đổi, bổ sung), Nxb. Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr. 40.

[3] Bryan A. Garner (1999), Black's Law Dictionary 7th edition, PUB. West Group, tr. 1232.

[4] Các nước theo truyền thống Civil Law quan niệm quyền sở hữu bao gồm quyền sử dụng, quyền hưởng hoa lợi và quyền định đoạt, còn quyền chiếm hữu là một quan hệ thực tế. Xem thêm Điều 206 Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Luật về quyền của Trung Quốc.

[5] Theo pháp luật dân sự Việt Nam, một mặt, xem quyền chiếm hữu là một quyền năng trong quyền sở hữu, mặt khác lại thiết kế chiếm hữu thành một nội dung riêng theo kiểu một hành vi thực tế.

[6] Nguyễn Văn Cừ, Trần Ngọc Huệ (đồng chủ biên) (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 303.

[7] SMH Law School Summarries I, Third Edition, SMH Inc, 1987, Real Property, Page 1.

[8] Xem Điều 261 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[9] Theo Điều 160 Bộ luật Dân sự năm 2015, chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi “theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được trái với quy định của luật”, nhưng chủ thể có quyền khác đối với tài sản được thực hiện mọi hành vi “trong phạm vi quyền được quy định” tại Bộ luật này, luật khác có liên quan.

[10] Điều 578 Bộ luật Dân sự năm Pháp 2005 (bản dịch): “Quyền hưởng hoa lợi, lợi tức là quyền hưởng dụng tài sản thuộc sở hữu của người khác…” và Điều 595: “Người hưởng hoa lợi, lợi tức có thể tự mình hưởng dụng tài sản, thậm chí có thể bán, chuyển giao không có đền bù quyền hưởng hoa lợi, lợi tức của mình”.

[11] Theo tác giả Nguyễn Ngọc Điện: “Tách ra từ quyền sở hữu để trở thành một quyền độc lập, các vật quyền chính không phải là quyền sở hữu đều có tính tạm thời: Đến lúc nào đó các quyền này phải biến mất hoặc gia nhập trở lại vào quyền sở hữu”, xem Nguyễn Ngọc Điện (2016), Giáo trình luật dân sự, tập 1, Nxb. Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 175.

[12] Riêng quyền đối với bất động sản liền kề chỉ có ý nghĩa đối với chủ sở hữu các bất động sản liền kề đó, không có ý nghĩa đối với chủ thể khác nên quyền này không thể được chuyển giao độc lập cho một chủ thể khác mà không gắn với quyền sở hữu bất động sản liền kề.

[13] Xem Điều 160 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[14] Theo pháp luật Pháp, quyền này gọi là quyền hưởng hoa lợi, lợi tức, tại Điều 578 Bộ luật Dân sự năm 2005 của Pháp (bản dịch): “Quyền hưởng hoa lợi, lợi tức là quyền hưởng dụng tài sản thuộc sở hữu của người khác như chính chủ sở hữu, nhưng có trách nhiệm giữ nguyên tài sản đó”.

[15] Xem Điều 578, Điều 595 Bộ luật Dân sự năm 2005 của Pháp.

[16] Xem các Điều 261, Điều 247, Điều 217 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[17] Xem Điều 322 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[18] Quyền đòi nợ với ý nghĩa là một tài sản thuộc loại quyền tài sản có thể hiểu đó là một khoản tiền sẽ được thanh toán vào một thời gian nhất định.

[19] Cũng có sự trùng lặp như quy định đối với quyền đòi nợ.

[20] Bộ luật Dân sự năm 2015 không liệt kê các quyền tài sản, tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2005 đã từng liệt kê một số quyền tài sản là đối tượng của hợp đồng bảo đảm tại Điều 322. Các quyền này hiện nay cũng thỏa mãn theo định nghĩa quyền tài sản của Bộ luật Dân sự năm 2015.

[21] Điểm a khoản 1 Điều 46 Luật Thủy sản năm 2017.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm