Thứ bảy 31/05/2025 07:15
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Phân định giữa hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực bị tố cáo

Bài viết phân tích một số điểm tương đồng, khác biệt giữa hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực bị tố cáo, lựa chọn mẫu để khảo sát, đánh giá và đề ra một số kiến nghị nhằm phân định các loại hành vi vi phạm bị tố cáo như trên.

1. Đặt vấn đề

Theo Luật Tố cáo năm 2018, loại hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo (tạm gọi là đối tượng tố cáo) bao gồm hai nhóm: (i) Hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; (ii) Hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. Về bản chất, mỗi loại đối tượng tố cáo có những khác biệt nhất định về nội dung tố cáo, chủ thể bị tố cáo, mục đích của việc tố cáo. Từ đó dẫn đến việc xác định và phân loại một cách rõ ràng đối tượng tố cáo theo hai loại trên không những có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận mà còn là thực tiễn áp dụng pháp luật tố cáo liên quan đến vấn đề về xác định thẩm quyền giải quyết, trình tự, thủ tục giải quyết tương ứng cũng như thời hạn và xử lý kết luận nội dung tố cáo. Vốn dĩ, việc giải quyết tố cáo là xem xét, kiểm tra, truy tìm chứng cứ chứng minh và áp dụng quy định pháp luật để xác định hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo, từ đó xác định loại đối tượng tố cáo do chủ thể bị tố cáo thực hiện có thực sự vi phạm pháp luật hay không. Trong khi đó, để thực hiện được điều này cần có những biện pháp chuyên môn nghiệp vụ khác nhau phụ thuộc rất nhiều vào loại đối tượng tố cáo tương ứng. Về mặt pháp lý và thực tiễn, việc phân định một cách rõ ràng khi nào là hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ, khi nào là hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực đôi lúc còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng, kéo theo hệ quả là việc xác định các nội dung như thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn… cũng gặp nhiều trở ngại, đôi lúc là chưa phù hợp. Điều này đặc biệt dễ thấy đối với những tố cáo trong đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong các lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Bởi lẽ, hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo trong hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập mang tính chuyên môn, kỹ thuật của ngành, lĩnh vực - đặc điểm của hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. Đồng thời được thực hiện bởi những chủ thể được Nhà nước trao nhiệm vụ, quyền hạn nhất định để thực hiện nhiệm vụ, công vụ - đặc điểm của hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Trong phạm vi giới hạn, bài viết nêu khái quát những điểm tương đồng và khác biệt giữa đối tượng tố cáo gồm hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước ở các lĩnh vực. Đồng thời chọn mẫu đối tượng tố cáo là hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giáo dục của đơn vị sự nghiệp công lập để từ đó đề xuất cách thức phân định các đối tượng tố cáo, hướng đến việc áp dụng pháp luật tố cáo trên thực tiễn đáp ứng nguyên tắc của Luật Tố cáo năm 2018 là việc giải quyết tố cáo phải kịp thời, chính xác, khách quan, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và thời hạn theo quy định của pháp luật (Điều 4).

2. Những tương đồng, khác biệt trong tố cáo, giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực; khảo sát một số hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giáo dục của đơn vị sự nghiệp công lập

2.1. Điểm tương đồng

Thứ nhất, xét về bản chất, bất kể là tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ hay tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực thì đối tượng của tố cáo đều là hành vi vi phạm pháp luật nói chung, mang đầy đủ các yếu tố cấu thành của hành vi vi phạm pháp luật bao gồm 04 mặt khách quan, chủ quan, khách thể và chủ thể[1].

Thứ hai, quy định của Luật Tố cáo năm 2018 đối với hai loại đối tượng tố cáo này đều có những nét tương đồng về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố cáo. Chẳng hạn, người tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ hay tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực đều có quyền được bảo đảm bí mật họ tên, địa chỉ, bút tích và thông tin cá nhân khác; được thông báo về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo như về việc thụ lý hoặc không thụ lý tố cáo, chuyển tố cáo đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết, gia hạn giải quyết tố cáo, đình chỉ, tạm đình chỉ việc giải quyết tố cáo, tiếp tục giải quyết tố cáo, kết luận nội dung tố cáo… và có các nghĩa vụ trình bày trung thực về nội dung tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo mà mình có được; chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung tố cáo… (Điều 9 Luật Tố cáo năm 2018). Tương tự, người bị tố cáo có các quyền được giải trình, đưa ra chứng cứ để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự thật; quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người cố ý tố cáo sai sự thật, người giải quyết tố cáo trái pháp luật… và thực hiện nghĩa vụ có mặt để làm việc theo yêu cầu của người giải quyết tố cáo; chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xử lý theo kết luận nội dung tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền… (Điều 10 Luật Tố cáo năm 2018). Hay người có thẩm quyền giải quyết tố cáo có các quyền như tiến hành các biện pháp cần thiết để xác minh, thu thập thông tin, tài liệu làm căn cứ để giải quyết tố cáo; áp dụng hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để ngăn chặn, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo… và có nghĩa vụ không tiết lộ thông tin về việc giải quyết tố cáo; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố cáo khi chưa có kết luận nội dung tố cáo… (Điều 11 Luật Tố cáo năm 2018).

2.2. Điểm khác biệt

Thứ nhất, về mặt thuật ngữ, Luật Tố cáo năm 2018 có sự giải thích khác nhau đối với hai loại đối tượng tố cáo này, cụ thể: (i) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ là tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của các đối tượng sau đây: “a) Cán bộ, công chức, viên chức; người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ; b) Người không còn là cán bộ, công chức, viên chức nhưng đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong thời gian là cán bộ, công chức, viên chức; người không còn được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhưng đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong thời gian được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ; c) Cơ quan, tổ chức” (khoản 2 Điều 2); (ii) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực là tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào về việc chấp hành quy định của pháp luật, trừ hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ (khoản 3 Điều 2).

Theo giải thích này, có thể nhận thấy điểm khác biệt cơ bản giữa tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực như sau:

Về chủ thể bị tố cáo: Đối với tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì người bị tố cáo phải là cá nhân, cơ quan, tổ chức được Nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội trao quyền như các cơ quan hành chính nhà nước, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước và các cơ quan khác của Nhà nước và người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong các cơ quan, tổ chức đó. Trong khi đó, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực có chủ thể bị tố cáo ở phạm vi rộng hơn, bao gồm bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào (cả các chủ thể thuộc tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và các cơ quan, tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp ngoài xã hội…) về việc chấp hành quy định của pháp luật chuyên ngành, trừ hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.

Về tính trái pháp luật của hành vi bị tố cáo: Đối với hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì hành vi bị tố cáo phải trái quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức, chủ thể được Nhà nước trao quyền và quy định về nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền gắn liền với nhiệm vụ, công vụ đó. Chẳng hạn như trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, thu hồi đất và bồi thường, giải phóng mặt bằng, giải quyết hồ sơ hành chính nhà đất…; việc xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực; việc quy hoạch xây dựng và tổ chức thi công xây dựng công trình công cộng… Trong khi đó, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực thì hành vi bị tố cáo phải mang tính trái pháp luật chuyên ngành như pháp luật về đất đai, về xây dựng, về tài chính, về doanh nghiệp, về chứng khoán, về kinh doanh bất động sản…

Thứ hai, các quy định khác của Luật Tố cáo năm 2018 đối với hai loại đối tượng tố cáo này đều có những nét khác biệt về các nội dung sau:

Về thẩm quyền giải quyết tố cáo: Hành vi vi phạm bị tố cáo rất đa dạng, có tính chất và mức độ nguy hiểm rất khác nhau cho nên việc giải quyết tố cáo thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan, tổ chức[2]. Đối với tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì thẩm quyền giải quyết tố cáo được xác định trên nhiều nguyên tắc khác nhau. Trước hết là mang tính trực thuộc về quản lý, bổ nhiệm, thông thường sẽ do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức đó giải quyết, trường hợp cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý của nhiều cơ quan, tổ chức thì do người đứng đầu cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý cán bộ, công chức, viên chức bị tố cáo chủ trì giải quyết và người đứng đầu cơ quan, tổ chức có liên quan phối hợp giải quyết. Ngoài ra, căn cứ để xác định thẩm quyền giải quyết còn phụ thuộc vào thời điểm có hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo như tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức xảy ra trong thời gian công tác trước đây nay đã chuyển sang cơ quan, tổ chức khác hoặc không còn là cán bộ, công chức, viên chức; hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo xảy ra tại cơ quan, tổ chức nhưng nay đã được hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc giải thể… Bên cạnh đó, nguyên tắc về cấp bậc hành chính cũng được áp dụng như trường hợp tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó giải quyết; tố cáo cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ do người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó giải quyết… (Điều 12 Luật Tố cáo năm 2018).

Khác với tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ, nguyên tắc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực lại căn cứ vào nội dung của hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của cơ quan nào thì cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết. Trường hợp tố cáo nhiều hành vi vi phạm pháp luật thuộc chức năng quản lý nhà nước của nhiều cơ quan thì các cơ quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp để thống nhất xác định cơ quan có thẩm quyền chủ trì giải quyết hoặc báo cáo cơ quan quản lý nhà nước cấp trên quyết định giao cho một cơ quan có thẩm quyền chủ trì giải quyết. Tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật thuộc thẩm quyền giải quyết của nhiều cơ quan thì cơ quan thụ lý đầu tiên có thẩm quyền giải quyết (Điều 41 Luật Tố cáo năm 2018).

Về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo: Đối với tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì việc giải quyết tố cáo phải đảm bảo đầy đủ các bước như thụ lý tố cáo, xác minh nội dung tố cáo, kết luận nội dung tố cáo, xử lý kết luận nội dung tố cáo của người giải quyết tố cáo (từ Điều 28 đến Điều 40 Luật Tố cáo năm 2018). Tuy nhiên, trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực lại mở ra “sự lựa chọn có điều kiện” dành cho người giải quyết tố cáo. Cụ thể là trình tự, thủ tục thông thường và trình tự, thủ tục rút gọn. Hai loại hoạt động tố cáo và giải quyết tố cáo có những nội dung giống nhau nhưng cũng có những điểm khác nhau về đối tượng tố cáo, nội dung tố cáo, hành vi vi phạm không trực tiếp mà trong nhiều trường hợp là trách nhiệm quản lý[3]. Theo đó, đối với trình tự, thủ tục thông thường được thực hiện như giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhưng việc xử lý hành vi vi phạm đó còn phải tuân thủ quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; đồng thời, thời hạn giải quyết tố cáo không được vượt quá thời hạn xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Về trình tự, thủ tục rút gọn được áp dụng khi có nội dung rõ ràng, chứng cứ cụ thể, có cơ sở để xử lý ngay[4].

2.3. Khảo sát một số hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giáo dục của đơn vị sự nghiệp công lập

Từ những điểm tương đồng và khác biệt như trên, dẫn đến giữa hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực luôn có sự giao thoa, đan xen và trên thực tế việc phân định rạch ròi trong mọi trường hợp là thực sự rất khó khăn. Để minh chứng, tác giả chọn mẫu để khảo sát đối với các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong lĩnh vực giáo dục. Không khó để nhận thấy rằng, một số hành vi vi phạm trong các tổ chức này có nhiều điểm tương đồng và rất khó xác định cụ thể đâu là hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và đâu là hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục. Tác giả chọn lọc một số hành vi vi phạm điển hình để làm cơ sở nghiên cứu và khẳng định cho nhận định trên là có cơ sở. Cụ thể, theo Nghị định số 04/2021/NĐ-CP ngày 22/01/2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục có một số hành vi vi phạm pháp luật điển hình như sau:

- Vi phạm quy định về tổ chức tuyển sinh (Điều 8), đối tượng tuyển sinh (Điều 9), chỉ tiêu tuyển sinh (Điều 10), tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của người học (Điều 15).

- Vi phạm quy định về cấp và quản lý văn bằng, chứng chỉ (Điều 21).

- Vi phạm quy định về sử dụng và công khai thông tin cấp văn bằng, chứng chỉ (Điều 23).

- Vi phạm quy định về sử dụng nhà giáo (Điều 24), vi phạm quy định về bảo đảm tỷ lệ giáo viên, giảng viên cơ hữu trong các cơ sở giáo dục (Điều 25).

- Vi phạm quy định về quản lý hồ sơ người học (Điều 27).

- Vi phạm quy định về kỷ luật người học; xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể người học; vi phạm quy định về chính sách đối với người học (Điều 21).

3. Nhận định chung về việc phân định dựa trên kết quả khảo sát và một số kiến nghị

Xét về mặt lý luận, không thể loại trừ trường hợp một hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của công chức, viên chức trong lĩnh vực chuyên ngành đồng nhất với hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực đó. Bởi lẽ, việc được cơ quan, tổ chức mang quyền lực nhà nước trao nhiệm vụ, quyền hạn cho đơn vị sự nghiệp công lập hoặc viên chức trực thuộc nó và hành vi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên có được xem là một hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đó hay không là hai phạm trù khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ. Có trường hợp hành vi vi phạm trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ được quy định là hành vi vi phạm hành chính của đơn vị sự nghiệp công lập hoặc tổ chức, viên chức trực thuộc nó nhưng có trường hợp lại không, điều này phụ thuộc vào quy định của Chính phủ trong các nghị định xử phạt vi phạm hành chính. Đồng thời cũng có trường hợp hành vi vi phạm hành chính không đồng thời là hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ bởi chủ thể thực hiện nó không phải là đơn vị sự nghiệp công lập hoặc tổ chức, viên chức trực thuộc nó. Như vậy, mối quan hệ giữa hai phạm trù hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của đơn vị sự nghiệp công lập hoặc tổ chức, viên chức trực thuộc nó và hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực mà đơn vị sự nghiệp công lập này hoạt động có sự giao thoa, đan xen.

Các hành vi vi phạm được nêu trong khảo sát thực khó để phân định trường hợp nào là hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ, trường hợp nào là hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. Điều này không những gây khó khăn cho chính bản thân người tố cáo khi thực hiện việc tố cáo mà còn dẫn đến các chủ thể tiếp nhận tố cáo cũng khó để xử lý sao cho phù hợp theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, nếu việc xác định sai loại hành vi bị tố cáo dẫn đến không chỉ thẩm quyền giải quyết tố cáo mà còn là trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo cùng các hệ quả kéo theo cũng không phù hợp theo quy định của pháp luật. Như vậy, vấn đề đặt ra là, cần phải tìm cách phân định trong trường hợp nào hành vi bị tố cáo được xem là hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ, trong trường hợp nào được xem là hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. Trong khi đó, việc chuyển tải nội dung phân định hai hành vi này vào điều khoản giải thích từ ngữ của Điều 2 Luật Tố cáo năm 2018 chưa thật sự cụ thể và rõ ràng để áp dụng trên thực tiễn. Mặt khác, cũng quy định này lại đồng nghĩa với việc xem hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực là hai phạm trù hoàn toàn độc lập, nghĩa là một hành vi chỉ có thể hoặc là vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ, hoặc là hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. Điều này là khác biệt với kết quả khảo sát một số hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giáo dục như đã đề cập.

Thiết nghĩ rằng, hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực được xem xét xử lý theo thủ tục hành chính, căn cứ theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính để xử lý hành vi vi phạm. Nói cách khác, loại hành vi này không liên quan đến yếu tố trách nhiệm công vụ mà gắn liền với trách nhiệm pháp lý hành chính dựa trên nền tảng hành vi vi phạm pháp luật hành chính do các chủ thể thực hiện. Do đó, nên chăng cần tiếp tục nghiên cứu, khảo sát đối với tố cáo hành vi vi phạm pháp luật nói chung trong các lĩnh vực khác nhau để có thể đi đến kết luận cuối cùng về nội dung này. Tuy nhiên, kết quả khảo sát cũng đặt ra vấn đề về việc có thể hướng đến quy định hướng dẫn chi tiết về việc phân định cũng như cách thức áp dụng của pháp luật tố cáo trong trường hợp hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ đồng thời được quy định là hành vi vi phạm hành chính (đối tượng giải quyết tố cáo về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực). Theo tác giả, đối với những loại hành vi nào đã được xác định là hành vi vi phạm pháp luật hành chính được ghi nhận trong các văn bản khác nhau (nghị định xử phạt vi phạm hành chính) thì các hành vi này nếu bị tố cáo sẽ được xếp vào nhóm hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. Đối với các hành vi khác nhưng không được liệt kê là loại hành vi vi phạm pháp luật hành chính thì xác định đó là hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ (chỉ áp dụng đối với các chủ thể bị tố cáo được liệt kê theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật Tố cáo năm 2018 như cán bộ, công chức, viên chức; người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ…). Qua đó tạo hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch để các chủ thể áp dụng pháp luật được thống nhất, hiệu quả khi xác định chính xác loại đối tượng tố cáo./.

ThS. Võ Tấn Đào

Khoa Luật hành chính - nhà nước,

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh


[1] Nguyễn Văn Động, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật (dành cho đào tạo đại học, sau đại học và trên đại học ngành luật), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2017, Hà Nội, tr. 442 - 443.

[2] Thanh tra Chính phủ, Tìm hiểu pháp luật về tố cáo (Tài liệu tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn), 2014, Hà Nội, tr. 23.

[3] Trần Huy Liệu, “Góp ý về trình tự, thủ tục tố cáo và giải quyết tố cáo trong Dự thảo Luật Tố cáo (sửa đổi)”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11 (339) T6/2017, tr. 32.

[4] Xem thêm quy định tại Điều 43 Luật Tố cáo năm 2018.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.
Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu đồng tình, nhất trí cao tại phiên họp thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng pháp luật do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 11/4/2025. Đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ tịch Hội đồng thẩm định chủ trì phiên họp.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đào tạo các ngành, nghề chuyên môn đặc thù trong lĩnh vực nghệ thuật

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đào tạo các ngành, nghề chuyên môn đặc thù trong lĩnh vực nghệ thuật

Đây là một trong những nội dung thảo luận được đưa ra tại phiên họp Hội đồng thẩm định hồ sơ dự án Nghị quyết của Quốc hội về đào tạo các ngành, nghề chuyên môn đặc thù trong lĩnh vực nghệ thuật do Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đặng Hoàng Oanh chủ trì ngày 11/4/2025.

Các biện pháp phòng, chống tội phạm hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo chức năng của lực lượng Cảnh sát hình sự

Bài viết nghiên cứu hoạt động phòng, chống tội phạm hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo chức năng của lực lượng Cảnh sát hình sự. Đồng thời, chỉ ra các biện pháp phòng, chống đối với tội phạm hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo chức năng của lực lượng Cảnh sát hình sự.

Bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn - Thực trạng và kiến nghị về chính sách, pháp luật

Rừng ngập mặn là một trong những hệ sinh thái quan trọng, là nơi nuôi dưỡng, cư ngụ, cung cấp thức ăn cho nhiều loài động vật, giúp ổn định bờ biển, bảo vệ đê điều và là tấm lá chắn chống lại gió bão cũng như thiên tai, đóng góp đáng kể vào đời sống kinh tế - xã hội của người dân ven biển. Tuy nhiên, vấn đề bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn chưa thực sự hiệu quả và đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có sự hạn chế, bất cập trong chính sách, pháp luật về vấn đề này. Bài viết phân tích, đánh giá và làm rõ hạn chế, bất cập trong chính sách, pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn hiện nay, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện.

Pháp luật về bảo vệ người lao động trong mô hình kinh tế gig ở Trung Quốc và một số gợi mở đối với Việt Nam

Bài viết phân tích, đánh giá quy định của pháp luật Trung Quốc về bảo vệ người lao động trong mô hình kinh tế gig (gig economy), từ đó, gợi mở một số kinh nghiệm nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.

Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về kế hoạch sử dụng đất hướng tới thực hiện mục tiêu phát triển bền vững

Kế hoạch sử dụng đất đóng vai trò quan trọng trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm công bằng trong tiếp cận đất đai và bảo vệ môi trường. Trong bối cảnh Việt Nam cam kết thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc, Luật Đất đai năm 2024 đã có những sửa đổi quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả kế hoạch sử dụng đất. Bài viết nghiên cứu, phân tích mối liên hệ giữa các Mục tiêu Phát triển Bền vững và kế hoạch sử dụng đất, đánh giá mức độ đáp ứng của pháp luật Việt Nam so với các tiêu chuẩn cốt lõi của phát triển bền vững, đồng thời, chỉ ra các bất cập, vướng mắc; từ đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về kế hoạch sử dụng đất, góp phần hướng tới thực hiện Mục tiêu Phát triển Bền vững cho nước ta.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm