Thứ sáu 11/07/2025 10:53
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 về phát hiện tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định về phát hiện tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước và trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Tuy nhiên, việc phát hiện tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước chỉ được quy định ngắn gọn trong Điều 82 Luật này.

1. Đặt vấn đề
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định về phát hiện tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước và trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Tuy nhiên, việc phát hiện tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước chỉ được quy định ngắn gọn trong Điều 82 Luật này. Cụ thể, Điều 82 quy định ba phương thức để phát hiện tham nhũng gồm: Hoạt động tự kiểm tra của doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước; hoạt động thanh tra của cơ quan thanh tra; hoạt động phản ánh, tố cáo, báo cáo của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khi phát hiện hành vi tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Trong khi đó, việc phát hiện tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước lại được Luật Phòng, chống tham nhũng quy định trong một chương riêng (Chương III). Điều này phần nào cho thấy vai trò quan trọng của việc phát hiện tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước.
Theo Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước và tổ chức, đơn vị khác do Nhà nước thành lập, đầu tư cơ sở vật chất, cấp phát toàn bộ hoặc một phần kinh phí hoạt động, do Nhà nước trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý nhằm phục vụ nhu cầu phát triển chung, thiết yếu của Nhà nước và xã hội. Như vậy, đặc điểm chung của cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước chính là việc kinh phí hoạt động, cơ sở vật chất được Nhà nước cấp phát, đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước; việc tổ chức, hoạt động đều do Nhà nước quản lý. Chính vì thế, nguy cơ tham nhũng từ những cơ quan, tổ chức, đơn vị này là rất lớn. Nhận diện được nguy cơ này, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã quy định những phương thức để phát hiện tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước. Theo đó, Chương III Luật này đã đưa ra ba phương thức cơ bản để phát hiện tham nhũng như sau: (i) Công tác kiểm tra và tự kiểm tra của cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước; (ii) Hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm toán; (iii) Phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng.
2. Một số bất cập trong các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 về phát hiện tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước
2.1. Phát hiện tham nhũng thông qua công tác kiểm tra và tự kiểm tra của cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước
Theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, kiểm tra và tự kiểm tra là hai công tác khác nhau. Theo đó, chủ thể tiến hành công tác tự kiểm tra là tất cả những người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước. Đối tượng của công tác tự kiểm tra là việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người có chức vụ, quyền hạn do người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước quản lý mà thường xuyên, trực tiếp giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khác. Mục đích của tự kiểm tra là nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý tham nhũng.
Còn công tác kiểm tra bao gồm: (i) Công tác kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước và (ii) Kiểm tra hoạt động chống tham nhũng trong Cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà nước, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân. Đối với công tác kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước, chủ thể tiến hành là người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước. Đối tượng của công tác này là việc chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước. Tương tự như công tác tự kiểm tra, mục đích công tác kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước là nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý tham nhũng. Còn đối với kiểm tra hoạt động chống tham nhũng, mục đích của công tác này là nhằm ngăn chặn hành vi lạm quyền, nhũng nhiễu và các hành vi khác vi phạm pháp luật trong hoạt động chống tham nhũng. Như vậy, theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, công tác này không có mục đích phát hiện tham nhũng như công tác tự kiểm tra và công tác kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 cũng quy định rõ hai hình thức kiểm tra là: (i) Kiểm tra thường xuyên được tiến hành theo chương trình, kế hoạch và tập trung vào lĩnh vực, hoạt động dễ phát sinh tham nhũng; (ii) Kiểm tra đột xuất được tiến hành khi phát hiện có dấu hiệu tham nhũng.
Tuy nhiên, có một số vấn đề được đặt ra như sau:
Thứ nhất, việc Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định đối tượng của công tác kiểm tra (cơ quan quản lý nhà nước) là “việc chấp hành pháp luật”. Tuy nhiên, cụm từ “chấp hành pháp luật” có nội hàm rất rộng, bao gồm việc chấp hành quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng, pháp luật hôn nhân gia đình, pháp luật an toàn giao thông đường bộ,… Vậy một vấn đề đặt ra là, trên thực tế, người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước có phải tiến hành kiểm tra việc chấp hành tất cả các quy định pháp luật trong mọi lĩnh vực của đối tượng được kiểm tra không? Trong khi đó, với quy định về hình thức kiểm tra có thể thấy, việc kiểm tra chủ yếu tập trung vào lĩnh vực, hoạt động dễ phát sinh tham nhũng.
Thứ hai, theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, chủ thể tiến hành công tác kiểm tra là người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay, trong khoa học pháp lý, việc xác định cơ quan quản lý nhà nước bao gồm những cơ quan nào vẫn còn là một vấn đề đang được tranh luận. Một số quan điểm cho rằng, cơ quan quản lý nhà nước không chỉ bao gồm Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp, mà còn bao gồm các Bộ, cơ quan ngang Bộ và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, bởi vì, tất cả những cơ quan này đều có chức năng quản lý. Nhưng một số quan điểm khác lại cho rằng, cơ quan quản lý nhà nước chỉ bao gồm Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp, lý do là, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân chỉ là bộ phận cấu thành, là một phần bên trong cơ cấu tổ chức của Chính phủ, Ủy ban nhân dân. Nghiên cứu các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 cũng thấy rằng, Luật chưa quy định rõ cơ quan quản lý nhà nước bao gồm những cơ quan nào. Như vậy, chỉ có người đứng đầu Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp mới phải tiến hành kiểm tra thường xuyên, đột xuất để phát hiện tham nhũng hay công tác này cũng là trách nhiệm của cả người đứng đầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân?
Thứ ba, đối với công tác kiểm tra, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định hai hình thức kiểm tra. Trong đó, kiểm tra thường xuyên được tiến hành theo chương trình, kế hoạch và tập trung vào lĩnh vực, hoạt động dễ phát sinh tham nhũng. Tuy nhiên, chương trình, kế hoạch kiểm tra này được xây dựng như thế nào, áp dụng trong thời gian bao lâu, do ai xây dựng… vẫn còn là vấn đề mà Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 “bỏ ngỏ”. Bên cạnh đó, đối với công tác tự kiểm tra, Luật này không quy định về các hình thức tự kiểm tra mà lại trao cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước quyền “chủ động tổ chức kiểm tra”. Cách quy định này có thể dẫn đến tình trạng họ “thờ ơ” hoặc tùy tiện trong việc tiến hành công tác tự kiểm tra. Đây có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém hiệu quả của phương thức tự kiểm tra trong việc phát hiện tham nhũng.
2.2. Phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm toán
2.2.1. Phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động giám sát của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử
Theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, một trong những phương thức để phát hiện tham nhũng là thông qua hoạt động giám sát của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử. Theo đó, hoạt động giám sát của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử bao gồm hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên, theo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015, giám sát của Quốc hội bao gồm giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội. Giám sát của Hội đồng nhân dân bao gồm giám sát của Hội đồng nhân dân tại kỳ họp, giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân và các đại biểu Hội đồng nhân dân. Như vậy, giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân đã bao gồm cả giám sát của các đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Vì vậy, tên gọi Điều 59 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018: “Phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động giám sát của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử và xử lý đề nghị của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử” là chưa hợp lý. Giám sát của cơ quan dân cử (tức là giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân) đã bao gồm giám sát của đại biểu dân cử (đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân). Bên cạnh đó, việc Luật này sử dụng thuật ngữ “cơ quan dân cử”, “đại biểu dân cử” cũng chưa bảo đảm tính minh bạch, thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật khác. Mặc dù trong khoa học pháp lý, “cơ quan dân cử”, “đại biểu dân cử” là những thuật ngữ được sử dụng để chỉ Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Nhưng về mặt pháp lý, Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân đều không sử dụng thuật ngữ “cơ quan dân cử”, “đại biểu dân cử”. Các văn bản này đều sử dụng thuật ngữ Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân thay cho hai thuật ngữ trên.
Theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, thông qua hoạt động giám sát nếu phát hiện vụ việc có dấu hiệu tham nhũng thì các chủ thể trên sẽ đề nghị Cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà nước, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân xử lý theo quy định của pháp luật. Khi nhận được đề nghị, Cơ quan thanh tra, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, phải xác minh, xử lý và thông báo kết quả cho cơ quan, đại biểu đã đề nghị. Như vậy, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 không trao cho Quốc hội, Hội đồng nhân dân… quyền trực tiếp xử lý khi phát hiện tham nhũng. Họ chỉ có thể đề nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý. Các cơ quan này, sau khi nhận được đề nghị, có trách nhiệm xác minh, xử lý và thông báo kết quả cho chủ thể đã đề nghị. Tuy nhiên, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 vẫn chưa quy định rõ những vấn đề sau:
Một là, sau khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội… phải gửi đề nghị đến Cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà nước, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân trong thời hạn chậm nhất là bao lâu? Việc đề nghị này không chỉ là quyền, mà còn là trách nhiệm của các chủ thể này. Nếu họ phát hiện nhưng không đề nghị hoặc đề nghị chậm trễ thì có thể dẫn đến tình trạng “bỏ lọt” các vụ việc tham nhũng.
Hai là, Cơ quan thanh tra, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân phải xác minh, xử lý và thông báo kết quả cho cơ quan, đại biểu chậm nhất trong thời gian bao lâu kể từ ngày nhận được đề nghị? Hình thức thông báo là gì (bắt buộc là thông báo bằng văn bản hay có thể thông báo bằng những hình thức khác)? Việc Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 không quy định rõ những vấn đề này có thể dẫn đến sự khó khăn cho các cơ quan dân cử, đại biểu dân cử trong việc yêu cầu các cơ quan trên xác minh, xử lý và thông báo kết quả xử lý các vụ việc có dấu hiệu tham nhũng.
2.2.2. Phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động thanh tra, kiểm toán
Theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, Cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà nước thông qua hoạt động thanh tra, kiểm toán có trách nhiệm chủ động phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị xử lý theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. Đồng thời, Luật này cũng quy định thẩm quyền của Cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà nước trong thanh tra, kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng tại Điều 61[1]. Tuy nhiên, trên thực tế, việc thanh tra, kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng có thể xảy ra sự trùng lặp. Vì thế, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định Tổng Thanh tra Chính phủ, Tổng Kiểm toán nhà nước có trách nhiệm phối hợp xử lý trùng lặp trong hoạt động thanh tra, kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, nếu Tổng Thanh tra Chính phủ và Tổng Kiểm toán nhà nước không thống nhất ý kiến với nhau khi xử lý trùng lặp trong hoạt động thanh tra, kiểm toán thì sẽ giải quyết như thế nào? Đây là vấn đề mà Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 vẫn còn “bỏ ngỏ”.
Bên cạnh đó, Điều 62 Luật này cũng quy định về trách nhiệm xử lý vụ việc có dấu hiệu tham nhũng được phát hiện qua hoạt động thanh tra, kiểm toán. Theo đó, trong quá trình thanh tra, kiểm toán nếu phát hiện vụ việc có dấu hiệu tham nhũng thì người ra quyết định thanh tra, người ra quyết định kiểm toán phải chỉ đạo xác minh, làm rõ vụ việc tham nhũng và xử lý như sau: (i) Trường hợp vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì chuyển ngay hồ sơ vụ việc và kiến nghị Cơ quan điều tra xem xét, khởi tố vụ án hình sự, đồng thời thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát nhân dân cung cấp; (ii) Trường hợp vụ việc không có dấu hiệu tội phạm thì kiến nghị cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền xử lý người có hành vi vi phạm. Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền xử lý phải thông báo bằng văn bản về kết quả xử lý cho Cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà nước đã kiến nghị. Tuy nhiên, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 lại không quy định thời hạn cụ thể mà người ra quyết định thanh tra, người ra quyết định kiểm toán phải thực hiện các công việc trên. Đồng thời, đối với trường hợp thứ hai, Luật này cũng không quy định rõ thời hạn cụ thể mà chủ thể có thẩm quyền xử lý phải xử lý vụ việc và thông báo kết quả xử lý.
2.3. Phát hiện tham nhũng thông qua phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng
Theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, phản ánh, tố cáo, báo cáo là ba hoạt động khác nhau. Một là, về chủ thể thực hiện phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng: Chủ thể thực hiện phản ánh về hành vi tham nhũng là cá nhân, tổ chức. Nhưng chủ thể tố cáo hành vi tham nhũng chỉ có thể là cá nhân, không bao gồm tổ chức. Còn chủ thể báo cáo về hành vi tham nhũng lại là cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang. Hai là, về chủ thể nhận phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng: Chủ thể nhận tố cáo, phản ánh là cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền theo pháp luật về tố cáo và pháp luật về tiếp công dân. Còn chủ thể nhận báo cáo về hành vi tham nhũng là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của người báo cáo hoặc là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý cán bộ (trong trường hợp người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan đến hành vi tham nhũng). Ba là, về thủ tục: Việc tiếp nhận, giải quyết tố cáo về hành vi tham nhũng được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo. Việc tiếp nhận, xử lý phản ánh về hành vi tham nhũng được thực hiện theo quy định của pháp luật về tiếp công dân. Việc báo cáo và xử lý báo cáo về hành vi tham nhũng được quy định tại Điều 66 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018. Theo đó, khi phát hiện hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi mình công tác thì chủ thể được giao trách nhiệm phải báo cáo ngay với người có thẩm quyền. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo về hành vi tham nhũng, người được báo cáo phải xử lý vụ việc theo thẩm quyền hoặc chuyển cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, xử lý và thông báo cho người báo cáo biết; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày; trường hợp cần thiết thì người được báo cáo quyết định hoặc đề nghị người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn, khắc phục hậu quả của hành vi tham nhũng và bảo vệ người báo cáo. Tuy nhiên, việc quy định “khi phát hiện hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi mình công tác thì chủ thể được giao trách nhiệm phải báo cáo ngay với người có thẩm quyền” chưa thật sự rõ ràng. Bởi lẽ, “báo cáo ngay” theo quy định trên là báo cáo trong thời hạn chậm nhất là bao lâu kể từ khi phát hiện hành vi tham nhũng? Đồng thời, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 cũng chưa quy định rõ những tiêu chí để xác định “vụ việc phức tạp”, “trường hợp cần thiết” trong quy định trên. Điều này có thể dẫn đến nguy cơ tuỳ tiện, lạm quyền của người được báo cáo khi xử lý vụ việc có dấu hiệu tham nhũng.
Về bảo vệ người phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng, theo Điều 67 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, việc bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo. Người phản ánh, báo cáo về hành vi tham nhũng được áp dụng các biện pháp bảo vệ như bảo vệ người tố cáo. Tuy nhiên, theo Luật Tố cáo năm 2018, việc bảo vệ người tố cáo không chỉ giới hạn trong việc bảo vệ đối với một mình cá nhân người tố cáo, mà còn bao gồm sự bảo vệ vị trí công tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người tố cáo. Điều này nhằm bảo đảm sự an toàn và yên tâm cho người tố cáo khi thực hiện tố cáo. Bởi khi thực hiện tố cáo, không chỉ bản thân người tố cáo, mà những người thân thích của họ cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro có thể xảy ra. Trên thực tế, có thể thấy rằng, khi thực hiện phản ánh hay báo cáo về hành vi tham nhũng, người thân thích của chủ thể phản ánh, báo cáo cũng có thể bị xâm hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, vị trí công tác, việc làm hay bị trù dập, phân biệt đối xử. Do đó, họ cũng cần được bảo vệ. Tuy nhiên, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 lại quy định chủ thể được áp dụng các biện pháp bảo vệ trong phản ánh, báo cáo hành vi tham nhũng chỉ là người phản ánh, báo cáo, không bao gồm người thân thích của họ. Điều này chưa thật sự hợp lý.
3. Kiến nghị hoàn thiện
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã có những quy định khá đầy đủ về phát hiện tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước. Tuy nhiên, những quy định này vẫn còn tồn tại một số bất cập cũng như các “khoảng trống” cần được sửa đổi, bổ sung, giải thích, hướng dẫn cụ thể hơn. Để khắc phục điều này, theo tác giả cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, các chủ thể có thẩm quyền cần sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm làm rõ hơn các “khoảng trống” của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 về công tác kiểm tra, tự kiểm tra. Theo đó, đối tượng của công tác kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước cần được quy định rõ là “việc chấp hành pháp luật về phòng, chống tham nhũng”. Chủ thể tiến hành công tác kiểm tra nên được quy định theo hướng mở rộng là người đứng đầu Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân các cấp. Đồng thời, cần quy định rõ kế hoạch tự kiểm tra là văn bản xác định nhiệm vụ chủ yếu về tự kiểm tra của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước trong 01 năm do các chủ thể này xây dựng. Kế hoạch kiểm tra là văn bản xác định nhiệm vụ chủ yếu về kiểm tra của những người đứng đầu Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân các cấp trong 01 năm do các chủ thể này xây dựng.
Thứ hai, các chủ thể có thẩm quyền cần sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm làm rõ hơn các “khoảng trống” của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 về thời hạn thực hiện một số hoạt động như: Thời hạn Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội… phải gửi đề nghị đến Cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà nước, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân khi phát hiện tham nhũng; thời hạn Cơ quan thanh tra, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân phải xác minh, xử lý và thông báo kết quả cho cơ quan dân cử, đại biểu dân cử (theo Điều 59 Luật này); thời hạn thanh tra, kiểm toán chuyển hồ sơ vụ việc và kiến nghị Cơ quan điều tra xem xét, khởi tố vụ án hình sự, thời hạn thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân cung cấp; kiến nghị cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền xử lý người có hành vi vi phạm; thời hạn cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền xử lý thông báo bằng văn bản về kết quả xử lý cho Cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà nước đã kiến nghị (theo Điều 62 Luật này); thời hạn báo cáo với chủ thể có thẩm quyền khi phát hiện hành vi tham nhũng (theo Điều 66 Luật này). Đồng thời, cần quy định rõ các tiêu chí để xác định “vụ việc phức tạp”, “trường hợp cần thiết” trong Điều 66 Luật này.
Thứ ba, nên nghiên cứu, sửa đổi một số quy định tại Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 như: (i) Tên gọi của Điều 59 Luật này cần được sửa đổi thành “Phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và xử lý đề nghị của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân”. (ii) Điều 67 Luật này cần sửa đổi quy định về bảo vệ người phản ánh, báo cáo về hành vi tham nhũng theo hướng việc bảo vệ người phản ánh, báo cáo về hành vi tham nhũng được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo.

Trương Thị Minh Thùy
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh


[1] Điều 61 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định: Cơ quan thanh tra, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thanh tra vụ việc có dấu hiệu tham nhũng theo thẩm quyền như sau: (i) Thanh tra Chính phủ thanh tra vụ việc có dấu hiệu tham nhũng do người giữ chức vụ từ Giám đốc sở và tương đương trở lên công tác tại Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương, đơn vị sự nghiệp công lập, cơ quan, tổ chức do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, doanh nghiệp nhà nước thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan ở trung ương thực hiện; người công tác tại Thanh tra Chính phủ thực hiện; (ii) Thanh tra Bộ thanh tra vụ việc có dấu hiệu tham nhũng do người công tác tại cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ, cơ quan ngang Bộ thực hiện, trừ trường hợp quy định tại điểm a khoản này; (iii) Thanh tra tỉnh thanh tra vụ việc có dấu hiệu tham nhũng do người công tác tại cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước thuộc thẩm quyền quản lý của chính quyền địa phương thực hiện, trừ trường hợp quy định tại điểm a khoản này. Các đơn vị trực thuộc Kiểm toán nhà nước kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng tại các cơ quan, tổ chức có quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công theo phân công của Tổng Kiểm toán nhà nước.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Trong bối cảnh công nghệ số phát triển mạnh mẽ, việc bảo vệ dữ liệu cá nhân nói chung, đặc biệt là dữ liệu của trẻ em - đối tượng dễ bị tổn thương - trở thành vấn đề cấp thiết. Thời gian qua, mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em nhưng thực tế vẫn còn nhiều hạn chế, thách thức cần giải quyết. Bài viết tập trung phân tích khung pháp lý hiện hành của Việt Nam về bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em, đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế, đồng thời, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nhằm bảo đảm quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ em trong môi trường số.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Thực tiễn cho thấy, việc thể chế hóa chế định quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm Thi hành Hiến pháp năm 2013 đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng cũng còn hạn chế, khó khăn nhất định. Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân cần thực hiện đúng, đầy đủ trách nhiệm theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và thể chể hóa các chủ trương, chính sách mới của Đảng về đổi mới tư duy xây dựng, thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Bài viết phân tích các quy định về giới hạn và điều kiện áp dụng hình phạt trong luật nhân quyền quốc tế, qua đó, chứng minh luật nhân quyền quốc tế đặt ra những giới hạn và điều kiện về bản chất, mức độ, đối tượng, thủ tục áp dụng hình phạt trong tố tụng hình sự nhằm ngăn chặn sự lạm quyền trong việc phòng, chống tội phạm và thúc đẩy tính nhân đạo của tư pháp hình sự. Đồng thời, bài viết cũng khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm của Cộng hòa liên bang Đức, Na Uy, Canada và Nam Phi, qua đó, gợi ý một số cải cách để Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc góp phần hoàn thiện pháp luật về áp dụng hình phạt tiệm cận hơn với các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế về vấn đề này.
Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Xử phạt vi phạm hành chính là một trong những công cụ hữu hiệu để Nhà nước đấu tranh và phòng ngừa vi phạm hành chính. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính đang được sửa đổi và dự kiến thông qua tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV với nhiều điểm mới, đặc biệt là các quy định liên quan đến thủ tục xử phạt vi phạm hành chính. Bài viết phân tích, luận giải một số vấn đề như điều kiện xử phạt hành chính không lập biên bản, quyền giải trình đối với trường hợp xử phạt theo thủ tục không lập biên bản, thời hạn chuyển biên bản vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt, về người chứng kiến ký biên bản vi phạm hành chính và kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy về định thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Bài viết tập trung phân tích những vướng mắc, bất cập của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2017, 2020, 2022 (Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012) về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan.
Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Theo quy định pháp luật, thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc về Tòa án nhân dân cấp huyện. Để áp dụng biện pháp này, các cơ quan hành chính phải lập hồ sơ đề nghị để Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định cho phép thực hiện. Bài viết nghiên cứu, phân tích về thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đồng thời, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước.
Bất cập trong nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và đề xuất, kiến nghị

Bất cập trong nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và đề xuất, kiến nghị

Bài viết chỉ ra những bất cập về nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và từ đó, đề xuất kiến nghị giúp khắc phục bất cập trong công tác xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức.
Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.

Theo dõi chúng tôi trên:

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son