Chủ nhật 08/06/2025 11:33
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Quy định về hòa giải vụ án dân sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và những nội dung cần làm rõ

Hòa giải vụ án dân sự là hoạt động tố tụng do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án dân sự. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn.

Mặc dù Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung phù hợp về hòa giải vụ án dân sự, tuy nhiên, một số nội dung vẫn cần tiếp tục được làm rõ. Bài viết này sẽ nghiên cứu về phạm vi hòa giải vụ án dân sự (những vụ án dân sự không được hòa giải, những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được); về phiên hòa giải và thời hạn ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong trường hợp có đương sự vắng mặt khi hòa giải.

Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp có nhiều ưu điểm bởi thông qua hòa giải, quyền tự định đoạt của đương sự được đề cao, rút ngắn quá trình tố tụng, giảm thiểu chi phí tố tụng, đồng thời còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc trong việc củng cố tình tương thân, tương ái, giữ gìn khối đoàn kết cộng đồng. Về cơ bản, các quy định về hòa giải vụ án dân sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 kế thừa các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Bên cạnh đó, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 còn sửa đổi, bổ sung một số quy định về hòa giải nhằm bảo đảm sự tương thích với quy định của pháp luật dân sự và phù hợp với thực tiễn hơn. Tuy vậy, một số quy định về vấn đề này vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu.

1. Về phạm vi hòa giải vụ án dân sự

Cũng giống như Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không liệt kê những vụ việc phải tiến hành hòa giải mà quy định theo phương pháp loại trừ. Theo đó, phạm vi hòa giải vụ án dân sự rất rộng, đó là những tranh chấp được quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn.

1.1. Những vụ án dân sự không được hòa giải

Theo Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, những vụ án không được hòa giải bao gồm: Yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước và những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định, đối với yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước thì không được hòa giải, nhằm phòng ngừa trường hợp lợi dụng việc hòa giải để thỏa thuận, thương lượng gây thiệt hại, thất thoát tài sản của Nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay, Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định về hình thức sở hữu nhà nước mà thay bằng hình thức sở hữu toàn dân (Điều 197 Bộ luật Dân sự năm 2015). Như vậy, về phạm vi những vụ án dân sự không được hòa giải không phù hợp với quy định tại Điều 197 Bộ luật Dân sự năm 2015 về hình thức sở hữu, thì Điều 206 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cần được hướng dẫn cho phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. Yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản thuộc sở hữu toàn dân là trường hợp tài sản thuộc sở hữu toàn dân bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật, do hợp đồng vô hiệu, do vi phạm nghĩa vụ dân sự… gây ra và người được giao quản lý, sử dụng có yêu cầu đòi bồi thường. Do đó, theo tác giả, khi hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về vấn đề này cần phân biệt các trường hợp sau:

- Trường hợp tài sản thuộc sở hữu toàn dân được đầu tư vào doanh nghiệp thì Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp. Trong trường hợp này, các doanh nghiệp phải có quyền tự chủ, tự quyết định tài sản của doanh nghiệp mình, việc hạn chế không được hòa giải khi có tranh chấp xảy ra trong trường hợp này hạn chế quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, mâu thuẫn với Luật Doanh nghiệp năm 2014. Do đó, theo tác giả, trong trường hợp này, Tòa án vẫn tiến hành hòa giải để các bên đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

- Trường hợp thuộc sở hữu toàn dân được giao cho cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, thì Nhà nước thực hiện quyền kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng tài sản đó. Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân thực hiện việc quản lý, sử dụng đúng mục đích theo quy định của pháp luật đối với tài sản được Nhà nước giao. Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp thực hiện việc quản lý, sử dụng tài sản được Nhà nước giao đúng mục đích, phạm vi, theo cách thức, trình tự do pháp luật quy định, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được quy định trong điều lệ.

Theo Điều 1 Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước năm 2008 thì tài sản nhà nước giao cho cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang quản lý, sử dụng là tài sản nhà nước tại các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Đồng thời, theo các điều 14, 15, 21, 22, 23, 30, 34, 37 của Luật này thì việc định đoạt tài sản được Nhà nước giao của các cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thông qua cơ quan có thẩm quyền như Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, người đứng đầu các cơ quan khác ở trung ương quyết định, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao tài sản nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính thuộc phạm vi quản lý của địa phương. Như vậy, trong trường hợp này, cơ quan, tổ chức được giao tài sản để sử dụng nhưng Nhà nước thực hiện quyền sở hữu thông qua cơ quan có thẩm quyền thì Tòa án không được hòa giải vì việc hòa giải có thể làm thiệt hại đến tài sản nhà nước.

1.2. Những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được

Đó là những vụ án pháp luật quy định phải hòa giải nhưng thực tế có những trở ngại khách quan dẫn đến việc không hòa giải được. So với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 bổ sung thêm trường hợp: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt thì vụ án không tiến hành hòa giải được (khoản 1 Điều 207). Việc bổ sung này là cần thiết, phù hợp với thực tế, bởi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người không khởi kiện, không bị kiện nhưng họ có quyền hoặc nghĩa vụ liên quan đến vụ án dân sự. Tuy nhiên, quy định này lại chưa thật sự hợp lý, bởi lẽ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự bao gồm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập là người tham gia tố tụng đứng về phía nguyên đơn hoặc bị đơn, họ không đưa ra yêu cầu độc lập nên Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà họ vẫn cố tình vắng mặt thì thuộc trường hợp vụ án không tiến hành hòa giải được là hợp lý. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình, họ có thể chống lại cả nguyên đơn và bị đơn. Bản chất của vụ án có yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là Tòa án đã nhập yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết trong cùng một vụ án. Do đó, Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà họ vẫn cố tình vắng mặt thì phải coi như họ đã từ bỏ yêu cầu độc lập và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt hoặc có người đại diện hợp pháp tham gia. Giải quyết vấn đề theo hướng này là phù hợp với điểm đ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Mặt khác, quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 chưa phù hợp với khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự phải có mặt tại phiên Tòa, nếu vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng thì hoãn phiên Tòa, còn nếu vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng thì trong trường hợp bị đơn vắng mặt, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt. Như vậy, để bảo đảm sự tương thích với khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, theo tác giả, nghị quyết hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cần hướng dẫn rõ khoản 1 Điều 207 như sau: Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập lần thứ hai mà vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng.

Đối với trường hợp đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự, Tòa án cũng không tiến hành hòa giải được. Bởi hòa giải là sự thỏa thuận của chính các đương sự cho nên khi một bên đương sự mất năng lực hành vi dân sự mà ly hôn là quan hệ gắn liền với nhân thân của đương sự đó thì sẽ không thể hòa giải được. Tuy nhiên, hiện nay, Bộ luật Dân sự năm 2015 bổ sung thêm trường hợp người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ. Việc bổ sung này là hợp lý nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế hiện nay. Vì vậy, để tương thích với Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cần bổ sung thêm trường hợp đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Bên cạnh đó, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 còn bổ sung thêm trường hợp không hòa giải được là một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải. Trước đây, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), khi đương sự không muốn tham gia hòa giải thì Tòa án vẫn phải triệu tập đương sự đến lần thứ hai, nếu họ vắng mặt thì mới được đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, dẫn đến thời gian giải quyết vụ án bị kéo dài. Vì vậy, việc bổ sung trường hợp không hòa giải được này là hợp lý nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tế, hạn chế việc kéo dài thời gian giải quyết vụ án.

2. Về phiên hòa giải và thời hạn ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong trường hợp có đương sự vắng mặt khi hòa giải

Nhằm cụ thể hóa quy định tại khoản 5 Điều 103 của Hiến pháp năm 2013 về “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử[1], đồng thời quy định về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ[2]. Việc bổ sung nội dung này đã phần nào khắc phục được những hạn chế, bất cập của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) và phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự của nhiều nước trên thế giới, nhằm bảo đảm tốt hơn các điều kiện cần thiết để thực hiện tranh tụng. Song, khác với pháp luật của các nước trên thế giới, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 được tiến hành cùng với phiên hòa giải. Quy định này có ưu điểm là tránh lặp lại nội dung của phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải, giúp cho đương sự không phải đến Tòa án nhiều lần, tiết kiệm chi phí tố tụng cho cả Tòa án và đương sự.

Để bảo đảm sự có mặt của các đương sự khi tiến hành hòa giải, Tòa án phải triệu tập các đương sự hoặc người đại diện của họ tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Trong vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành phiên họp và việc tiến hành phiên họp đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thẩm phán tiến hành phiên họp giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hòa giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì thẩm phán phải hoãn phiên họp. Thẩm phán phải thông báo việc hoãn phiên họp và việc mở lại phiên họp cho đương sự. Theo quy định của điều luật này thì thẩm phán chỉ được tiến hành hòa giải vắng mặt đương sự khi thỏa mãn cả hai điều kiện: Các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hòa giải và việc hòa giải đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Vấn đề đặt ra là như thế nào được coi là “việc hòa giải không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt”? Nếu trong vụ án có nhiều quan hệ pháp luật mà quan hệ pháp luật này liên quan đến đương sự này, quan hệ pháp luật kia liên quan đến đương sự khác và việc giải quyết quan hệ pháp luật đó chỉ liên quan đến các đương sự có mặt không liên quan đến các đương sự vắng mặt thì thẩm phán tiến hành hòa giải những vấn đề có liên quan đến các đương sự có mặt. Đối với trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề chuyển giao nghĩa vụ mà đương sự vắng mặt là người có quyền thì phải tuân thủ quy định về chuyển giao nghĩa vụ. Theo quy định của Điều 370 Bộ luật Dân sự năm 2015 về chuyển giao nghĩa vụ thì bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ. Vì vậy, nếu đương sự vắng mặt khi hòa giải là đương sự có quyền thì dù các đương sự có mặt thỏa thuận được với nhau về việc chuyển giao nghĩa vụ dân sự thì thỏa thuận đó vẫn phải có sự đồng ý của người có quyền.

Bên cạnh đó, nhằm bảo đảm tốt hơn việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung thành phần tham gia hòa giải bao gồm cả người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (nếu có) nên Tòa án phải triệu tập họ tham gia việc hòa giải. Quy định này đã bảo đảm sự tương thích với khoản 3 Điều 76 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng chưa quy định về hậu quả pháp lý nếu họ vắng mặt khi được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên hòa giải, do đó, nghị quyết hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự cần hướng dẫn rõ về trường hợp này như nếu họ vắng mặt, phiên hòa giải vẫn được tiến hành bình thường.

Để bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cũng như để đảm bảo cho việc xác định chứng cứ được khách quan, trong trường hợp cần thiết, thẩm phán yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan tham gia phiên họp. Đây là quy định mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 so với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Ngoài ra, theo tác giả, đối với tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, thẩm phán có thể yêu cầu Ủy ban nhân dân nơi có đất tham gia phiên họp. Tuy nhiên, để tránh việc kéo dài thời gian giải quyết vụ án, nghị quyết hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên quy định, nếu đại diện Ủy ban nhân dân vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp.

So với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), thủ tục phiên hòa giải, biên bản hòa giải được quy định chi tiết, cụ thể hơn trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tuy vậy, các nhà làm luật lại không quy định giá trị pháp lý của biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải trong trường hợp các đương sự không thỏa thuận được với nhau về giải quyết vụ án là điểm hạn chế rất đáng tiếc của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Mục đích của phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhằm xác định và chốt lại yêu cầu và phạm vi khởi kiện, việc sửa đổi, bổ sung, thay đổi, rút yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập; những vấn đề đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất yêu cầu Tòa án giải quyết; tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án và việc gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác; bổ sung tài liệu, chứng cứ; yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ; yêu cầu Tòa án triệu tập đương sự khác, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác tại phiên Tòa. Do đó, về nguyên tắc, sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cuối cùng các đương sự không có quyền cung cấp chứng cứ, không có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu. Song, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tại phiên Tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử vẫn chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu. Như vậy, sau khi kết thúc phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cuối cùng nhưng trước khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm mà các đương sự mới thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ và việc thay đổi, bổ sung này là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập đã được xác định tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì Tòa án có chấp nhận không? Đây là vấn đề mà Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 chưa quy định cụ thể nên cần được hướng dẫn theo hướng, sau khi kết thúc phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cuối cùng, các đương sự không có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu, nếu việc thay đổi, bổ sung này là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập đã được xác định tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cuối cùng.

Trong trường hợp vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành phiên họp nhưng trường hợp thỏa thuận của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giá trị và được thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải đồng ý bằng văn bản. Tuy nhiên, thời hạn lấy ý kiến của đương sự vắng mặt trong trường hợp này chưa được khoản 3 Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định dẫn đến có các cách hiểu và áp dụng khác nhau. Do đó, cần quy định thời hạn và phương thức lấy ý kiến của đương sự vắng mặt trong trường hợp này, có thể tối đa là 15 ngày, kể từ ngày các đương sự có mặt tại phiên hòa giải thỏa thuận được với nhau về giải quyết vụ án. Đối với trường hợp đương sự vắng mặt ở nước ngoài thì thời hạn lấy ý kiến của đương sự vắng mặt được thực hiện theo thủ tục ủy thác tư pháp sẽ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt. Mặt khác, tiếp thu điểm hợp lý, phù hợp với thực tế của Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011)[3], cần hướng dẫn khoản 3 Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 theo hướng, ngày Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong trường hợp này là 07 ngày, kể từ ngày nhận được ý kiến đồng ý bằng văn bản của đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải.

TS. Bùi Thị Huyền
Đại học Luật Hà Nội

Tài liệu tham khảo:

[1]. Xem Điều 24 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Xem các quy định từ Điều 208 đến Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3]. Khoản 3 Điều 17 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn khoản 3 Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) như sau: Trường hợp trước khi tiến hành hòa giải đương sự vắng mặt đã có ý kiến bằng văn bản nhưng sau khi kết thúc phiên hòa giải, nội dung hòa giải của các đương sự có mặt khác với nội dung văn bản thể hiện ý chí của đương sự vắng mặt, thì Tòa án phải lấy ý kiến bằng văn bản của đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải về thỏa thuận của các đương sự tại phiên hòa giải. Thủ tục và thời hạn lấy ý kiến bằng văn bản của đương sự được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Trường hợp đương sự đồng ý với kết quả hòa giải thì ngày nhận được ý kiến bằng văn bản của đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải được xác định là ngày các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Bàn về các xu hướng phát triển của pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Các xu hướng phát triển pháp luật là biểu hiện các quy luật phát triển pháp luật có ý nghĩa phương pháp luận, lý luận và thực tiễn quan trọng, gắn liền với việc xây dựng chiến lược phát triển pháp luật ở nước ta; các xu hướng phát triển pháp luật chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu các xu hướng phát triển pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm