1. Quyền khởi kiện
Quyền sở hữu công nghiệp là một đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, mang đặc điểm riêng so với tài sản thông thường, do vậy cơ chế bảo hộ và xử lý hành vi xâm phạm cũng có những nét đặc thù. Khi xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra hành vi xâm phạm, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền tự bảo vệ bằng việc áp dụng những biện pháp nhất định quy định tại Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (sau đây gọi là Luật Sở hữu trí tuệ). Một trong những biện pháp đó là khởi kiện ra Tòa án bằng vụ án dân sự. Khoản 4 Điều 26 và khoản 2 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng khẳng định tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ (bao gồm nhóm quyền sở hữu công nghiệp) thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể, Nhà nước quy định nhiều biện pháp khác nhau như biện pháp dân sự, biện pháp hình sự, biện pháp hành chính… Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có thể thực hiện những hành vi theo quy định pháp luật để ngăn chặn các hành vi xâm phạm xảy ra trên thực tế, yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải khắc phục hậu quả[1] cũng như yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi cho mình. Đặc biệt, trong số các biện pháp bảo vệ quyền dân sự nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng có biện pháp khởi kiện vụ án dân sự theo trình tự tố tụng dân sự tại Tòa án. Khởi kiện là bắt đầu việc kiện trước Toà án[2], là hành vi tố tụng của cá nhân, cơ quan, tổ chức gửi đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. So với những biện pháp xử lý hành vi xâm phạm khác, khởi kiện tại Tòa án có ưu thế hơn vì hành vi xâm phạm (nếu có) sẽ bị xử lý bằng bộ máy cưỡng chế của Nhà nước[3]. Điều 4 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ghi nhận quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thông qua việc khởi kiện vụ án dân sự: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác”. Quyền được khởi kiện và được Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là minh họa rõ nhất về quyền tiếp cận công lý của công dân. Điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định cụ thể về quyền khởi kiện, theo đó cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, khi quyền lợi hợp pháp của mình bị xâm phạm, chủ thể liên quan có quyền khởi kiện ra Tòa án với tư cách là một biện pháp tự bảo vệ quyền theo Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ. Các nội dung liên quan đến quyền khởi kiện vụ án dân sự về quyền sở hữu công nghiệp được quy định chi tiết ở Mục II và III Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BTP ngày 03/4/2008 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân. Điều 41 Hiệp định TRIPS cũng quy định các thành viên phải bảo đảm rằng các thủ tục thực thi quyền phải được quy định trong luật quốc gia của mình để tạo khả năng khiếu kiện có hiệu quả đối với mọi hành vi xâm phạm các loại quyền sở hữu trí tuệ được đề cập trong Hiệp định này. Trong đó, hai nội dung chính có những nét đặc trưng của quyền sở hữu công nghiệp so với quyền khởi kiện theo pháp luật tố tụng dân sự là chủ thể khởi kiện và điều kiện khởi kiện.
2. Chủ thể khởi kiện
Chủ thể khởi kiện vụ án dân sự về quyền sở hữu công nghiệp rất đa dạng, bởi lẽ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng với tính chất là tài sản vô hình, nội dung quyền bao gồm quyền tài sản và quyền nhân thân trao cho tác giả, chủ sở hữu và chủ thể được hưởng quyền sử dụng hợp pháp. Quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể này đều có liên quan ít nhiều bởi việc bảo hộ và xâm phạm các đối tượng sở hữu công nghiệp, do vậy, cho phép họ khởi kiện tại Tòa án là điều cần thiết. Chủ thể khởi kiện quyền sở hữu công nghiệp có thể chia thành ba nhóm: (i) Chủ thể tranh chấp về quyền đăng ký; (ii) Tác giả và chủ sở hữu; (iii) Chủ thể nhận chuyển giao hợp pháp quyền sở hữu công nghiệp.
- Nhóm chủ thể có quyền khởi kiện vụ án dân sự về quyền sở hữu công nghiệp đầu tiên là các cá nhân, tổ chức tranh chấp về quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý. Một số đối tượng quyền sở hữu công nghiệp xác lập quyền trên cơ sở đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, việc xác định chủ thể nào có quyền đăng ký là vô cùng quan trọng vì đây chính là cơ hội để hưởng quyền sở hữu đối tượng đó. Quyền đăng ký sở hữu công nghiệp được quy định tại các điều 86, 87, 88 Luật Sở hữu trí tuệ. Chủ thể có quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và thiết kế bố trí là tác giả hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư kinh phí, phương tiện vật chất cho tác giả dưới hình thức giao việc, thuê việc. Quyền đăng ký nhãn hiệu thuộc về tổ chức, cá nhân sản xuất hàng hóa, cung cấp dịch vụ hoặc đóng vai trò đưa sản phẩm ra thị trường… Quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý thuộc về Nhà nước. Trong đó, Nhà nước cho phép tổ chức, cá nhân sản xuất sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý hoặc cơ quan quản lý hành chính địa phương thực hiện quyền đăng ký. Khi quyền đăng ký có tranh chấp, các chủ thể liên quan được quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Nhóm chủ thể thứ hai là tác giả và chủ sở hữu đối tượng quyền sở hữu công nghiệp, bao gồm: Tác giả, đồng tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí; chủ văn bằng bảo hộ sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí; chủ sở hữu giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, đăng ký quốc tế nhãn hiệu được chấp nhận bảo hộ tại Việt Nam, chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng; chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, tên thương mại; cá nhân, tổ chức có quyền sử dụng hợp pháp chỉ dẫn địa lý, tổ chức tập thể đại diện cho cá nhân, tổ chức được trao quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý; tổ chức, cá nhân có đối tượng sở hữu công nghiệp liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.
+ Chủ thể khởi kiện là tác giả: Dựa vào những nét đặc thù về bản chất, các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp theo thông lệ quốc tế được chia thành hai đối tượng[4] là: (i) Đối tượng mà việc bảo hộ xuất phát từ giá trị của sự sáng tạo, bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn và bí mật kinh doanh. Điểm nổi bật trong điều kiện bảo hộ của các đối tượng này đó là thành quả của sự sáng tạo. Tôn trọng giá trị trí tuệ trong quá trình tạo ra sản phẩm, pháp luật bảo hộ cho chủ sở hữu các đối tượng này được phép khai thác độc quyền trong thời hạn bảo hộ tương ứng; (ii) Những đối tượng còn lại bao gồm nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý và tên thương mại. Bản chất của những đối tượng này là dấu hiệu có khả năng truyền tin tới người tiêu dùng về mối liên hệ giữa sản phẩm, dịch vụ đang lưu thông trên thị trường với nhà sản xuất, nhà cung cấp nhằm phân biệt các sản phẩm cùng loại[5]. Do đó, chủ thể là “tác giả” chỉ được đặt ra cho nhóm đối tượng thứ nhất bảo hộ trên cơ sở thành quả sáng tạo bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn.
+ Chủ thể khởi kiện là chủ sở hữu: Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp là chủ thể trực tiếp khai thác giá trị lợi ích từ tài sản trí tuệ nên đây là nhóm chủ thể khởi kiện quan trọng và phổ biến nhất, đặc biệt là khi có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trên thực tế. Tại các quốc gia khác, chủ thể khởi kiện tranh chấp sở hữu công nghiệp phổ biến nhất cũng là chủ sở hữu, vì hơn ai hết đây là chủ thể bị ảnh hưởng lớn nhất khi có tranh chấp xảy ra.
+ Chủ thể có quyền sử dụng hợp pháp chỉ dẫn địa lý: Với đặc thù chỉ dẫn địa lý là đối tượng thuộc sở hữu Nhà nước (Điều 121 Luật Sở hữu trí tuệ) và Nhà nước trao quyền sử dụng cho các tổ chức, cá nhân, trong trường hợp phát sinh tranh chấp liên quan đến chỉ dẫn địa lý thì chính các tổ chức, cá nhân bị xâm phạm quyền trực tiếp sẽ thực hiện việc khởi kiện.
Bên cạnh đó, còn có những chủ thể được nhận chuyển giao hợp pháp quyền sở hữu công nghiệp bao gồm: Người thừa kế hợp pháp của tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí; hoặc người thừa kế hợp pháp, người kế thừa quyền sở hữu công nghiệp của chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp; cá nhân, tổ chức được chuyển giao hợp pháp quyền sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp; cá nhân, tổ chức được chuyển giao hợp pháp quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp; cá nhân, tổ chức được chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chủ thể quyền khác theo quy định của pháp luật. Quyền sở hữu công nghiệp mang bản chất là một loại quyền tài sản, do đó chủ sở hữu có quyền chuyển giao cho các chủ thể khác trong khuôn khổ quy định pháp luật. Bên cạnh đó, bảo hộ sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng là bảo hộ có thời hạn, do vậy có thể khi chủ sở hữu không còn tồn tại thì quyền sở hữu công nghiệp vẫn còn được bảo hộ, lúc này quyền được chuyển giao cho người thừa kế hoặc kế thừa hợp pháp. Những chủ thể nhận chuyển giao quyền (bao gồm quyền sở hữu và quyền sử dụng) cũng có quyền khởi kiện vụ án dân sự liên quan đến đối tượng sở hữu công nghiệp mình sở hữu hoặc sử dụng.
Từ những quy định chung trong Bộ luật Tố tụng dân sự, pháp luật sở hữu trí tuệ đã có các quy định cụ thể những tổ chức, cá nhân nào có quyền khởi kiện vụ án dân sự về quyền sở hữu công nghiệp. Điểm chung của các chủ thể này là quyền và lợi ích của họ có liên quan đến đối tượng sở hữu công nghiệp. Để có thể thực hiện quyền khởi kiện, ngoài việc thỏa mãn về yêu cầu chủ thể nêu trên thì pháp luật còn đặt ra điều kiện khởi kiện.
3. Điều kiện khởi kiện
Bên cạnh điều kiện khởi kiện chung được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, quyền khởi kiện tranh chấp sở hữu công nghiệp còn có những điều kiện riêng, xuất phát từ đặc trưng của loại tài sản này. Khởi kiện là giai đoạn đầu tiên của quá trình giải quyết một vụ án dân sự tại Tòa án, là giai đoạn mà người khởi kiện đưa ra yêu cầu của mình để Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, yêu cầu của người khởi kiện không phải đương nhiên được Tòa án chấp nhận mà chỉ được chấp nhận nếu Tòa án xét thấy rằng yêu cầu này là có căn cứ và hợp pháp. Điều kiện khởi kiện là giả thiết phải có lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay tranh chấp, cụ thể đó là các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp đang xem xét phải được xác lập quyền hợp pháp và được bảo hộ theo quy định pháp luật. Các đối tượng được bảo hộ vừa là điều kiện để thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự vừa là động lực để thúc đẩy các đương sự tham gia tố tụng[6].
Việc bảo hộ các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp cần xem xét đến căn cứ xác lập quyền và thời hạn bảo hộ. Chỉ khi đối tượng được xác lập quyền hợp pháp và còn thời hạn bảo hộ thì mới có cơ sở thực hiện quyền khởi kiện.
- Điều kiện về căn cứ xác lập quyền
Để khởi kiện vụ án dân sự về quyền sở hữu công nghiệp, trước hết quyền sở hữu công nghiệp phải được xác lập theo các căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ và Điều 6 Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp. Khi quyết định gửi đơn khởi kiện, tổ chức, cá nhân phải gửi kèm theo các tài liệu chứng minh mình là chủ thể có quyền. Các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp xác lập quyền dựa trên văn bằng bảo hộ được cấp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc thông qua việc sử dụng hợp pháp đối tượng đó. Do vậy, điều kiện về căn cứ xác lập quyền cũng được nghiên cứu theo hai nhóm đối tượng.
+ Đối tượng xác lập quyền trên cơ sở cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Điểm a khoản 3 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ quy định quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Cụ thể, để được bảo hộ thì tác giả, chủ sở hữu đối tượng phải thực hiện thủ tục đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ. Qua quá trình xử lý đơn đăng ký, cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành cấp văn bằng bảo hộ cho các đối tượng đáp ứng điều kiện bảo hộ. Nếu chưa thực hiện thủ tục đăng ký, cơ chế bảo hộ của Nhà nước chưa được thực thi thì các tổ chức, cá nhân không thể khởi kiện cho các đối tượng này. Khi khởi kiện vụ án dân sự, chủ thể chứng minh mình đã xác lập quyền hợp pháp bằng văn bằng bảo hộ được cấp hoặc bản trích lục sổ đăng ký quốc gia các đối tượng trên. Nếu nhãn hiệu đăng ký quốc tế thì tài liệu chứng minh chủ thể quyền là bản gốc giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam hoặc các bản sao công báo của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), giấy chứng nhận đăng ký quốc tế, công báo sở hữu công nghiệp của Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp có được các đối tượng trên thông qua chuyển nhượng quyền sở hữu, thì phải có hợp đồng chuyển nhượng được đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ (hình thức hợp đồng theo quy định tại Điều 148 Luật Sở hữu trí tuệ).
+ Đối tượng xác lập quyền trên cơ sở sử dụng hợp pháp: Ngoài các đối tượng xác lập quyền trên cơ sở cấp văn bằng bảo hộ, các đối tượng sở hữu công nghiệp như bí mật kinh doanh, tên thương mại và nhãn hiệu nổi tiếng xác lập quyền trên cơ sở sử dụng mà không cần qua thủ tục đăng ký theo điểm a, b, c khoản 3 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ. Xác lập trên cơ sở sử dụng do đó khi có tranh chấp xảy ra, việc chứng minh quyền sở hữu hợp pháp các đối tượng này tương đối phức tạp hơn so với các đối tượng xác lập quyền trên cơ sở cấp văn bằng bảo hộ.
- Điều kiện về thời hạn bảo hộ
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là bảo hộ có thời hạn theo quy định của pháp luật mà trong thời hạn đó, quyền sở hữu công nghiệp được Nhà nước bảo vệ, chống lại sự xâm phạm của các chủ thể khác. Bảo hộ sở hữu trí tuệ đề cao và tôn vinh giá trị của các tài sản sáng tạo, bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu nhưng mặt khác cũng cần có sự hài hoà lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia. Thời hạn bảo hộ được tính toán phù hợp sao cho trong khoảng thời gian này, chủ thể sáng tạo/chủ sở hữu quyền đã nhận lại được những lợi ích từ hoạt động lao động sáng tạo đó. Hết thời hạn bảo hộ, các tài sản trí tuệ được phục vụ rộng rãi cho mọi người, trở thành tài sản chung của nhân loại. Do đó, một trong những điều kiện khởi kiện quyền sở hữu công nghiệp là đối tượng đó còn trong thời hạn bảo hộ. Quy định về thời hạn bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cũng dựa trên căn cứ xác lập quyền của các đối tượng này. Hầu hết, các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp xác lập quyền trên cơ sở cấp văn bằng bảo hộ có thời hạn bảo hộ xác định. Thời hạn bảo hộ các đối tượng này được quy định tại Điều 93 Luật Sở hữu trí tuệ và được tính dựa trên ngày nộp đơn và ngày cấp văn bằng bảo hộ. Hết thời hạn này, việc bảo hộ đối tượng sở hữu công nghiệp chấm dứt tạo cơ hội cho các chủ thể khác trong xã hội tiếp cận những sản phẩm mới. Do vậy, khi đã hết thời hạn bảo hộ thì việc khởi kiện không còn ý nghĩa.
Đối tượng xác lập quyền trên cơ sở sử dụng hợp pháp: Luật Sở hữu trí tuệ không quy định thời hạn bảo hộ cụ thể cho các đối tượng này. Có thể hiểu, đối với tên thương mại nhãn hiệu nổi tiếng và bí mật kinh doanh, thời hạn bảo hộ sẽ chấm dứt khi các đối tượng này không còn đáp ứng điều kiện bảo hộ. Cụ thể, mục III.2.1.b Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BTP quy định: “Phải căn cứ vào các điều kiện bảo hộ đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp là nhãn hiệu nổi tiếng, tên thương mại, bí mật kinh doanh, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh, quy định tại các mục 4, 5 và 7 Chương VII của Luật Sở hữu trí tuệ” để xác định việc bảo hộ hợp pháp.
Nếu hết thời hạn bảo hộ hoặc văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp bị chấm dứt hoặc bị huỷ bỏ hiệu lực, thì các quyền của chủ thể quyền sở hữu công nghiệp không còn được Nhà nước và pháp luật bảo hộ. Theo Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BTP, Toà án chỉ thụ lý đơn khởi kiện để giải quyết nếu hành vi xâm phạm xảy ra vào thời điểm văn bằng bảo hộ còn hiệu lực hoặc đối tượng quyền sở hữu công nghiệp vẫn còn trong thời hạn được bảo hộ. Liệu rằng chủ thể có quyền khởi kiện cho hành vi xâm phạm xảy ra trong quá khứ và nay đã chấm dứt thời hạn bảo hộ hay không? Cần phải làm rõ trường hợp hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp xảy ra vào thời điểm mà thời hạn bảo hộ đối tượng này vẫn còn nhưng vào thời điểm khởi kiện thì đã hết thời hạn bảo hộ. Trong trường hợp này, việc khởi kiện có phù hợp với quy định pháp luật không và có ý nghĩa đối với các bên trong tranh chấp không? Chẳng hạn, Công ty A là chủ văn bằng bảo hộ sáng chế phát hiện Công ty B vi phạm quyền sở hữu công nghiệp của mình và gây ra thiệt hại nhất định. Tuy nhiên, sau khi văn bằng bảo hộ sáng chế đã chấm dứt hiệu lực, Công ty A mới khởi kiện Công ty B yêu cầu bồi thường thiệt hại. Theo tác giả, trường hợp này vẫn đáp ứng điều kiện khởi kiện về thời hạn bảo hộ. Vào thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm, đối tượng này vẫn còn được bảo hộ và do vậy đáp ứng tiêu chí “có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm”. Tất nhiên, khi xem xét về mức độ và phạm vi của hành vi xâm phạm thì chỉ tính trong thời hạn bảo hộ của đối tượng sở hữu công nghiệp.
Khởi kiện vụ án dân sự để vấn đề tranh chấp được giải quyết bằng bộ máy cưỡng chế của Nhà nước là một hình thức để chủ thể quyền được tiếp cận công lý, là biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Hiệp định TRIPS cũng đặt ra yêu cầu các quốc gia thành viên phải đảm bảo quyền tham gia thủ tục tố tụng dân sự một cách đúng đắn, công bằng và có chứng cứ, ngăn chặn và xử lý hành vi xâm phạm. Trong đó, đảm bảo quyền khởi kiện là yêu cầu tiên quyết. Đối với quyền sở hữu công nghiệp, căn cứ xác lập quyền và cơ chế bảo hộ có nhiều điểm khác biệt so với các loại tài sản thông thường, do đó chủ thể khởi kiện và điều kiện khởi kiện mang tính đặc thù.
[1]. Phạm Văn Tuyết và Lê Kim Giang (2008), Sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, Nxb. Tư pháp, tr. 394.
[2]. Từ điển Luật học (1999), Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr. 253.
[3]. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr. 333.
[4]. Đinh Thị Mai Phương (2009), Về bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo pháp luật Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 13.
[5]. Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2004), Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Chủ biên Lê Hồng Hạnh và Đinh Thị Mai Phương, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 66, 67.
[6]. Tống Công Cường (2007), Luật tố tụng dân sự Việt Nam - Nghiên cứu so sánh, Nxb. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 215 - 217.
Quyền sở hữu công nghiệp là một đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, mang đặc điểm riêng so với tài sản thông thường, do vậy cơ chế bảo hộ và xử lý hành vi xâm phạm cũng có những nét đặc thù. Khi xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra hành vi xâm phạm, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền tự bảo vệ bằng việc áp dụng những biện pháp nhất định quy định tại Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (sau đây gọi là Luật Sở hữu trí tuệ). Một trong những biện pháp đó là khởi kiện ra Tòa án bằng vụ án dân sự. Khoản 4 Điều 26 và khoản 2 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng khẳng định tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ (bao gồm nhóm quyền sở hữu công nghiệp) thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể, Nhà nước quy định nhiều biện pháp khác nhau như biện pháp dân sự, biện pháp hình sự, biện pháp hành chính… Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có thể thực hiện những hành vi theo quy định pháp luật để ngăn chặn các hành vi xâm phạm xảy ra trên thực tế, yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải khắc phục hậu quả[1] cũng như yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi cho mình. Đặc biệt, trong số các biện pháp bảo vệ quyền dân sự nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng có biện pháp khởi kiện vụ án dân sự theo trình tự tố tụng dân sự tại Tòa án. Khởi kiện là bắt đầu việc kiện trước Toà án[2], là hành vi tố tụng của cá nhân, cơ quan, tổ chức gửi đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. So với những biện pháp xử lý hành vi xâm phạm khác, khởi kiện tại Tòa án có ưu thế hơn vì hành vi xâm phạm (nếu có) sẽ bị xử lý bằng bộ máy cưỡng chế của Nhà nước[3]. Điều 4 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ghi nhận quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thông qua việc khởi kiện vụ án dân sự: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác”. Quyền được khởi kiện và được Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là minh họa rõ nhất về quyền tiếp cận công lý của công dân. Điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định cụ thể về quyền khởi kiện, theo đó cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, khi quyền lợi hợp pháp của mình bị xâm phạm, chủ thể liên quan có quyền khởi kiện ra Tòa án với tư cách là một biện pháp tự bảo vệ quyền theo Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ. Các nội dung liên quan đến quyền khởi kiện vụ án dân sự về quyền sở hữu công nghiệp được quy định chi tiết ở Mục II và III Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BTP ngày 03/4/2008 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân. Điều 41 Hiệp định TRIPS cũng quy định các thành viên phải bảo đảm rằng các thủ tục thực thi quyền phải được quy định trong luật quốc gia của mình để tạo khả năng khiếu kiện có hiệu quả đối với mọi hành vi xâm phạm các loại quyền sở hữu trí tuệ được đề cập trong Hiệp định này. Trong đó, hai nội dung chính có những nét đặc trưng của quyền sở hữu công nghiệp so với quyền khởi kiện theo pháp luật tố tụng dân sự là chủ thể khởi kiện và điều kiện khởi kiện.
2. Chủ thể khởi kiện
Chủ thể khởi kiện vụ án dân sự về quyền sở hữu công nghiệp rất đa dạng, bởi lẽ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng với tính chất là tài sản vô hình, nội dung quyền bao gồm quyền tài sản và quyền nhân thân trao cho tác giả, chủ sở hữu và chủ thể được hưởng quyền sử dụng hợp pháp. Quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể này đều có liên quan ít nhiều bởi việc bảo hộ và xâm phạm các đối tượng sở hữu công nghiệp, do vậy, cho phép họ khởi kiện tại Tòa án là điều cần thiết. Chủ thể khởi kiện quyền sở hữu công nghiệp có thể chia thành ba nhóm: (i) Chủ thể tranh chấp về quyền đăng ký; (ii) Tác giả và chủ sở hữu; (iii) Chủ thể nhận chuyển giao hợp pháp quyền sở hữu công nghiệp.
- Nhóm chủ thể có quyền khởi kiện vụ án dân sự về quyền sở hữu công nghiệp đầu tiên là các cá nhân, tổ chức tranh chấp về quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý. Một số đối tượng quyền sở hữu công nghiệp xác lập quyền trên cơ sở đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, việc xác định chủ thể nào có quyền đăng ký là vô cùng quan trọng vì đây chính là cơ hội để hưởng quyền sở hữu đối tượng đó. Quyền đăng ký sở hữu công nghiệp được quy định tại các điều 86, 87, 88 Luật Sở hữu trí tuệ. Chủ thể có quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và thiết kế bố trí là tác giả hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư kinh phí, phương tiện vật chất cho tác giả dưới hình thức giao việc, thuê việc. Quyền đăng ký nhãn hiệu thuộc về tổ chức, cá nhân sản xuất hàng hóa, cung cấp dịch vụ hoặc đóng vai trò đưa sản phẩm ra thị trường… Quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý thuộc về Nhà nước. Trong đó, Nhà nước cho phép tổ chức, cá nhân sản xuất sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý hoặc cơ quan quản lý hành chính địa phương thực hiện quyền đăng ký. Khi quyền đăng ký có tranh chấp, các chủ thể liên quan được quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Nhóm chủ thể thứ hai là tác giả và chủ sở hữu đối tượng quyền sở hữu công nghiệp, bao gồm: Tác giả, đồng tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí; chủ văn bằng bảo hộ sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí; chủ sở hữu giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, đăng ký quốc tế nhãn hiệu được chấp nhận bảo hộ tại Việt Nam, chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng; chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, tên thương mại; cá nhân, tổ chức có quyền sử dụng hợp pháp chỉ dẫn địa lý, tổ chức tập thể đại diện cho cá nhân, tổ chức được trao quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý; tổ chức, cá nhân có đối tượng sở hữu công nghiệp liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.
+ Chủ thể khởi kiện là tác giả: Dựa vào những nét đặc thù về bản chất, các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp theo thông lệ quốc tế được chia thành hai đối tượng[4] là: (i) Đối tượng mà việc bảo hộ xuất phát từ giá trị của sự sáng tạo, bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn và bí mật kinh doanh. Điểm nổi bật trong điều kiện bảo hộ của các đối tượng này đó là thành quả của sự sáng tạo. Tôn trọng giá trị trí tuệ trong quá trình tạo ra sản phẩm, pháp luật bảo hộ cho chủ sở hữu các đối tượng này được phép khai thác độc quyền trong thời hạn bảo hộ tương ứng; (ii) Những đối tượng còn lại bao gồm nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý và tên thương mại. Bản chất của những đối tượng này là dấu hiệu có khả năng truyền tin tới người tiêu dùng về mối liên hệ giữa sản phẩm, dịch vụ đang lưu thông trên thị trường với nhà sản xuất, nhà cung cấp nhằm phân biệt các sản phẩm cùng loại[5]. Do đó, chủ thể là “tác giả” chỉ được đặt ra cho nhóm đối tượng thứ nhất bảo hộ trên cơ sở thành quả sáng tạo bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn.
+ Chủ thể khởi kiện là chủ sở hữu: Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp là chủ thể trực tiếp khai thác giá trị lợi ích từ tài sản trí tuệ nên đây là nhóm chủ thể khởi kiện quan trọng và phổ biến nhất, đặc biệt là khi có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trên thực tế. Tại các quốc gia khác, chủ thể khởi kiện tranh chấp sở hữu công nghiệp phổ biến nhất cũng là chủ sở hữu, vì hơn ai hết đây là chủ thể bị ảnh hưởng lớn nhất khi có tranh chấp xảy ra.
+ Chủ thể có quyền sử dụng hợp pháp chỉ dẫn địa lý: Với đặc thù chỉ dẫn địa lý là đối tượng thuộc sở hữu Nhà nước (Điều 121 Luật Sở hữu trí tuệ) và Nhà nước trao quyền sử dụng cho các tổ chức, cá nhân, trong trường hợp phát sinh tranh chấp liên quan đến chỉ dẫn địa lý thì chính các tổ chức, cá nhân bị xâm phạm quyền trực tiếp sẽ thực hiện việc khởi kiện.
Bên cạnh đó, còn có những chủ thể được nhận chuyển giao hợp pháp quyền sở hữu công nghiệp bao gồm: Người thừa kế hợp pháp của tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí; hoặc người thừa kế hợp pháp, người kế thừa quyền sở hữu công nghiệp của chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp; cá nhân, tổ chức được chuyển giao hợp pháp quyền sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp; cá nhân, tổ chức được chuyển giao hợp pháp quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp; cá nhân, tổ chức được chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chủ thể quyền khác theo quy định của pháp luật. Quyền sở hữu công nghiệp mang bản chất là một loại quyền tài sản, do đó chủ sở hữu có quyền chuyển giao cho các chủ thể khác trong khuôn khổ quy định pháp luật. Bên cạnh đó, bảo hộ sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng là bảo hộ có thời hạn, do vậy có thể khi chủ sở hữu không còn tồn tại thì quyền sở hữu công nghiệp vẫn còn được bảo hộ, lúc này quyền được chuyển giao cho người thừa kế hoặc kế thừa hợp pháp. Những chủ thể nhận chuyển giao quyền (bao gồm quyền sở hữu và quyền sử dụng) cũng có quyền khởi kiện vụ án dân sự liên quan đến đối tượng sở hữu công nghiệp mình sở hữu hoặc sử dụng.
Từ những quy định chung trong Bộ luật Tố tụng dân sự, pháp luật sở hữu trí tuệ đã có các quy định cụ thể những tổ chức, cá nhân nào có quyền khởi kiện vụ án dân sự về quyền sở hữu công nghiệp. Điểm chung của các chủ thể này là quyền và lợi ích của họ có liên quan đến đối tượng sở hữu công nghiệp. Để có thể thực hiện quyền khởi kiện, ngoài việc thỏa mãn về yêu cầu chủ thể nêu trên thì pháp luật còn đặt ra điều kiện khởi kiện.
3. Điều kiện khởi kiện
Bên cạnh điều kiện khởi kiện chung được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, quyền khởi kiện tranh chấp sở hữu công nghiệp còn có những điều kiện riêng, xuất phát từ đặc trưng của loại tài sản này. Khởi kiện là giai đoạn đầu tiên của quá trình giải quyết một vụ án dân sự tại Tòa án, là giai đoạn mà người khởi kiện đưa ra yêu cầu của mình để Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, yêu cầu của người khởi kiện không phải đương nhiên được Tòa án chấp nhận mà chỉ được chấp nhận nếu Tòa án xét thấy rằng yêu cầu này là có căn cứ và hợp pháp. Điều kiện khởi kiện là giả thiết phải có lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay tranh chấp, cụ thể đó là các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp đang xem xét phải được xác lập quyền hợp pháp và được bảo hộ theo quy định pháp luật. Các đối tượng được bảo hộ vừa là điều kiện để thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự vừa là động lực để thúc đẩy các đương sự tham gia tố tụng[6].
Việc bảo hộ các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp cần xem xét đến căn cứ xác lập quyền và thời hạn bảo hộ. Chỉ khi đối tượng được xác lập quyền hợp pháp và còn thời hạn bảo hộ thì mới có cơ sở thực hiện quyền khởi kiện.
- Điều kiện về căn cứ xác lập quyền
Để khởi kiện vụ án dân sự về quyền sở hữu công nghiệp, trước hết quyền sở hữu công nghiệp phải được xác lập theo các căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ và Điều 6 Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp. Khi quyết định gửi đơn khởi kiện, tổ chức, cá nhân phải gửi kèm theo các tài liệu chứng minh mình là chủ thể có quyền. Các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp xác lập quyền dựa trên văn bằng bảo hộ được cấp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc thông qua việc sử dụng hợp pháp đối tượng đó. Do vậy, điều kiện về căn cứ xác lập quyền cũng được nghiên cứu theo hai nhóm đối tượng.
+ Đối tượng xác lập quyền trên cơ sở cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Điểm a khoản 3 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ quy định quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Cụ thể, để được bảo hộ thì tác giả, chủ sở hữu đối tượng phải thực hiện thủ tục đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ. Qua quá trình xử lý đơn đăng ký, cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành cấp văn bằng bảo hộ cho các đối tượng đáp ứng điều kiện bảo hộ. Nếu chưa thực hiện thủ tục đăng ký, cơ chế bảo hộ của Nhà nước chưa được thực thi thì các tổ chức, cá nhân không thể khởi kiện cho các đối tượng này. Khi khởi kiện vụ án dân sự, chủ thể chứng minh mình đã xác lập quyền hợp pháp bằng văn bằng bảo hộ được cấp hoặc bản trích lục sổ đăng ký quốc gia các đối tượng trên. Nếu nhãn hiệu đăng ký quốc tế thì tài liệu chứng minh chủ thể quyền là bản gốc giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam hoặc các bản sao công báo của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), giấy chứng nhận đăng ký quốc tế, công báo sở hữu công nghiệp của Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp có được các đối tượng trên thông qua chuyển nhượng quyền sở hữu, thì phải có hợp đồng chuyển nhượng được đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ (hình thức hợp đồng theo quy định tại Điều 148 Luật Sở hữu trí tuệ).
+ Đối tượng xác lập quyền trên cơ sở sử dụng hợp pháp: Ngoài các đối tượng xác lập quyền trên cơ sở cấp văn bằng bảo hộ, các đối tượng sở hữu công nghiệp như bí mật kinh doanh, tên thương mại và nhãn hiệu nổi tiếng xác lập quyền trên cơ sở sử dụng mà không cần qua thủ tục đăng ký theo điểm a, b, c khoản 3 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ. Xác lập trên cơ sở sử dụng do đó khi có tranh chấp xảy ra, việc chứng minh quyền sở hữu hợp pháp các đối tượng này tương đối phức tạp hơn so với các đối tượng xác lập quyền trên cơ sở cấp văn bằng bảo hộ.
- Điều kiện về thời hạn bảo hộ
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là bảo hộ có thời hạn theo quy định của pháp luật mà trong thời hạn đó, quyền sở hữu công nghiệp được Nhà nước bảo vệ, chống lại sự xâm phạm của các chủ thể khác. Bảo hộ sở hữu trí tuệ đề cao và tôn vinh giá trị của các tài sản sáng tạo, bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu nhưng mặt khác cũng cần có sự hài hoà lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia. Thời hạn bảo hộ được tính toán phù hợp sao cho trong khoảng thời gian này, chủ thể sáng tạo/chủ sở hữu quyền đã nhận lại được những lợi ích từ hoạt động lao động sáng tạo đó. Hết thời hạn bảo hộ, các tài sản trí tuệ được phục vụ rộng rãi cho mọi người, trở thành tài sản chung của nhân loại. Do đó, một trong những điều kiện khởi kiện quyền sở hữu công nghiệp là đối tượng đó còn trong thời hạn bảo hộ. Quy định về thời hạn bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cũng dựa trên căn cứ xác lập quyền của các đối tượng này. Hầu hết, các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp xác lập quyền trên cơ sở cấp văn bằng bảo hộ có thời hạn bảo hộ xác định. Thời hạn bảo hộ các đối tượng này được quy định tại Điều 93 Luật Sở hữu trí tuệ và được tính dựa trên ngày nộp đơn và ngày cấp văn bằng bảo hộ. Hết thời hạn này, việc bảo hộ đối tượng sở hữu công nghiệp chấm dứt tạo cơ hội cho các chủ thể khác trong xã hội tiếp cận những sản phẩm mới. Do vậy, khi đã hết thời hạn bảo hộ thì việc khởi kiện không còn ý nghĩa.
Đối tượng xác lập quyền trên cơ sở sử dụng hợp pháp: Luật Sở hữu trí tuệ không quy định thời hạn bảo hộ cụ thể cho các đối tượng này. Có thể hiểu, đối với tên thương mại nhãn hiệu nổi tiếng và bí mật kinh doanh, thời hạn bảo hộ sẽ chấm dứt khi các đối tượng này không còn đáp ứng điều kiện bảo hộ. Cụ thể, mục III.2.1.b Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BTP quy định: “Phải căn cứ vào các điều kiện bảo hộ đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp là nhãn hiệu nổi tiếng, tên thương mại, bí mật kinh doanh, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh, quy định tại các mục 4, 5 và 7 Chương VII của Luật Sở hữu trí tuệ” để xác định việc bảo hộ hợp pháp.
Nếu hết thời hạn bảo hộ hoặc văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp bị chấm dứt hoặc bị huỷ bỏ hiệu lực, thì các quyền của chủ thể quyền sở hữu công nghiệp không còn được Nhà nước và pháp luật bảo hộ. Theo Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BTP, Toà án chỉ thụ lý đơn khởi kiện để giải quyết nếu hành vi xâm phạm xảy ra vào thời điểm văn bằng bảo hộ còn hiệu lực hoặc đối tượng quyền sở hữu công nghiệp vẫn còn trong thời hạn được bảo hộ. Liệu rằng chủ thể có quyền khởi kiện cho hành vi xâm phạm xảy ra trong quá khứ và nay đã chấm dứt thời hạn bảo hộ hay không? Cần phải làm rõ trường hợp hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp xảy ra vào thời điểm mà thời hạn bảo hộ đối tượng này vẫn còn nhưng vào thời điểm khởi kiện thì đã hết thời hạn bảo hộ. Trong trường hợp này, việc khởi kiện có phù hợp với quy định pháp luật không và có ý nghĩa đối với các bên trong tranh chấp không? Chẳng hạn, Công ty A là chủ văn bằng bảo hộ sáng chế phát hiện Công ty B vi phạm quyền sở hữu công nghiệp của mình và gây ra thiệt hại nhất định. Tuy nhiên, sau khi văn bằng bảo hộ sáng chế đã chấm dứt hiệu lực, Công ty A mới khởi kiện Công ty B yêu cầu bồi thường thiệt hại. Theo tác giả, trường hợp này vẫn đáp ứng điều kiện khởi kiện về thời hạn bảo hộ. Vào thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm, đối tượng này vẫn còn được bảo hộ và do vậy đáp ứng tiêu chí “có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm”. Tất nhiên, khi xem xét về mức độ và phạm vi của hành vi xâm phạm thì chỉ tính trong thời hạn bảo hộ của đối tượng sở hữu công nghiệp.
Khởi kiện vụ án dân sự để vấn đề tranh chấp được giải quyết bằng bộ máy cưỡng chế của Nhà nước là một hình thức để chủ thể quyền được tiếp cận công lý, là biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Hiệp định TRIPS cũng đặt ra yêu cầu các quốc gia thành viên phải đảm bảo quyền tham gia thủ tục tố tụng dân sự một cách đúng đắn, công bằng và có chứng cứ, ngăn chặn và xử lý hành vi xâm phạm. Trong đó, đảm bảo quyền khởi kiện là yêu cầu tiên quyết. Đối với quyền sở hữu công nghiệp, căn cứ xác lập quyền và cơ chế bảo hộ có nhiều điểm khác biệt so với các loại tài sản thông thường, do đó chủ thể khởi kiện và điều kiện khởi kiện mang tính đặc thù.
ThS. Nguyễn Phương Thảo
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
[1]. Phạm Văn Tuyết và Lê Kim Giang (2008), Sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, Nxb. Tư pháp, tr. 394.
[2]. Từ điển Luật học (1999), Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr. 253.
[3]. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr. 333.
[4]. Đinh Thị Mai Phương (2009), Về bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo pháp luật Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 13.
[5]. Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2004), Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Chủ biên Lê Hồng Hạnh và Đinh Thị Mai Phương, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 66, 67.
[6]. Tống Công Cường (2007), Luật tố tụng dân sự Việt Nam - Nghiên cứu so sánh, Nxb. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 215 - 217.