Thứ ba 10/06/2025 12:43
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Tội mua bán người dưới 16 tuổi và Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi trong Bộ luật Hình sự năm 2015

Bài viết phân tích dấu hiệu định tội cơ bản của hai tội Tội mua bán người dưới 16 tuổi và Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi trong Bộ luật Hình sự năm 2015, đồng thời, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện để việc định tội danh được chính xác và thống nhất.

Bài viết phân tích dấu hiệu định tội cơ bản của hai tội Tội mua bán người dưới 16 tuổi và Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi trong Bộ luật Hình sự năm 2015, đồng thời, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện để việc định tội danh được chính xác và thống nhất.

1. Quy định Bộ luật Hình sự năm 2015 về Tội mua bán người dưới 16 tuổi và Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi

Trong Bộ luật Hình sự 2015 Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015) và Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153 Bộ luật Hình sự năm 2015) được quy định tại Chương XIV - Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Trước đây, Bộ luật Hình sự năm 1999 hai tội phạm này được quy định trong cùng một điều luật là Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120). Tuy nhiên, khi Bộ luật Hình sự năm 2015 được ban hành “Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em” đã được tách ra thành các điều luật riêng biệt với một chút sửa đổi trong tên tội danh, việc sửa đổi này sẽ phản ánh được đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi[1], thể hiện được tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về việc nhấn mạnh bảo vệ quyền con người và các quyền của công dân cũng như phù hợp với nghĩa vụ tội phạm hóa của quốc gia trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên[2].

Những dấu hiệu định tội của Tội mua bán người dưới 16 tuổi và Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi trong Bộ luật Hình sự năm 2015:

Thứ nhất, Tội mua bán người dưới 16 tuổi theo Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015[3]

Khách thể của tội phạm này là danh dự, nhân phẩm và sự phát triển bình thường của người dưới 16 tuổi (người phạm tội coi con người như một món hàng để đem ra mua bán, trao đổi, gây thiệt hại nặng nề về danh dự, nhân phẩm của nạn nhân). Chủ thể của tội phạm này phải là người từ đủ 14 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự. Về mặt chủ quan, tội phạm này được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Về mặt khách quan đây là tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức, chỉ quy định hành vi khách quan là dấu hiệu bắt buộc, hành vi có thể được thực hiện dưới 3 dạng:

- Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác;

- Chuyển giao hoặc tiếp nhận người người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;

- Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.

Tuy nhiên, điểm a khoản 1 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015 có loại trừ trường hợp không phạm tội đó là: Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo. Trước đây trong Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định về hành vi mua bán trẻ em và cũng có loại trừ một số trường hợp không phạm vào tội này như là “vì đông con hoặc vì đặc biệt khó khăn đặc biệt mà phải bán con mình (dưới hình thức cho làm con nuôi và nhận số tiền giúp đỡ) cũng như trường hợp vì hiếm muộn mà mua của chính người có con đem bán để về làm con nuôi thì không phạm tội”[4]. Vì vậy theo quan điểm của tác giả đây có thể xem là các trường hợp nhân đạo mà Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015 đề cập[5].

Tuy nhiên xét về mặt khách quan, trong Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015) chỉ quy định hành vi khách quan mà không quy định phương thức, thủ đoạn thực hiện hành vi đó là “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác” như trong Tội mua bán người (Điều 150 Bộ luật Hình sự năm 2015). Việc quy định như vậy dẫn đến hai cách hiểu:

Cách hiểu thứ nhất, đây là hai tội phạm có mối quan hệ cấu thành tội phạm chung và cấu thành tội phạm riêng (chủ yếu phân biệt tội danh là dựa vào độ tuổi của đối tượng tác động) vì vậy phương thức, thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng để thực hiện hành vi trong Tội mua bán người dưới 16 tuổi sẽ giống với Tội mua bán người.

Cách hiểu thứ hai, đó là trong Tội mua bán người dưới 16 tuổi chỉ cần người phạm tội thực hiện các hành vi được quy định trong cấu thành là đã đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm dù có hay không sử dụng phương thức, thủ đoạn như trong Tội mua bán người.

Theo tác giả, cách hiểu thứ hai sẽ hợp lý hơn vì đối tượng tác động của Tội mua bán người dưới 16 tuổi là người dưới 16 tuổi – những người chưa thật sự hoàn thiện về tâm sinh lý, sẽ có những trường hợp nạn nhân còn quá nhỏ để có thể nhận thức được các phương thức, thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài ra, theo khoản c Điều 3 Nghị định thư về ngăn ngừa, trấn áp và trừng trị hành vi buôn bán người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung cho công ước của Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia quy định “Việc mua, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hay nhận một đứa trẻ nhằm mục đích bóc lột sẽ bị coi là "buôn bán người" ngay cả khi việc này được thực hiện không cần dùng đến bất kỳ cách thức nào được nói đến trong khoản (a) điều này” (Các cách thức đã nêu trong khoản a điều này là một trong những cách thức đã quy định tại Điều 150 Bộ luật Hình sự đó là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác)[6].

Tội mua bán người dưới 16 tuổi quy định 4 khung hình phạt trong đó mức hình phạt thấp nhất đối với tội này là phạt tù 7 năm và mức hình phạt cao nhất là tù chung thân. Khoản 4 quy định về hình phạt bổ sung.

Thứ hai, Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi theo Điều 153 Bộ luật Hình sự năm 2015[7]

So với Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015) thì khách thể và mặt chủ quan của của tội phạm này là giống nhau. Chủ thể của tội phạm này là chủ thể thường, phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự. Về mặt khách quan, tội phạm này chỉ quy định dấu hiệu hành vi khách quan là bắt buộc nên đây là cấu thành tội phạm hình thức. Hành vi chiếm đoạt người dưới 16 tuổi được hiểu là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ. Hành vi chiếm giữ người dưới 16 tuổi có thể được thực hiện bằng thủ đoạn dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực nhưng cũng có thể là bằng dụ dỗ, lừa dối…và mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội này. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả thực tế muốn xác định được tội danh này thì ta cần phải dựa vào mục đích của người phạm tội. Hành vi chiếm giữ người dưới 16 tuổi của người phạm tội phải có mục đích không giao trả lại người (mặc dù trong luật không quy định) và không thuộc các trường hợp chiếm giữ người với những mục đích khác mà luật đã quy định thì mới có thể phân biệt với các tội phạm khác vì hành vi chiếm giữ được quy định trong nhiều tội danh khác nhau. Ví dụ nếu người phạm tội dùng các thủ đoạn khác nhau chiếm giữ người dưới 16 tuổi để thực hiện các hành vi tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 151 thì thuộc trường hợp Tội mua bán người dưới 16 tuổi (điểm c khoản 1 Điều 151 Bộ luật Hình sự)[8].

Điều 153 Bộ luật Hình sự quy định 4 khung hình phạt. Khoản 1 quy định hình phạt tù thấp nhất 03 năm và khoản 3 quy định mức hình phạt cao nhất là 15 năm tù. Khoản 4 quy định hình phạt bổ sung.

2. Một số hạn chế trong quy định Bộ luật Hình sự năm 2015 về dấu hiệu định tội của Tội mua bán người dưới 16 tuổi và Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi

Thứ nhất, có thể nhận thấy được điểm tiến bộ trong Bộ luật Hình sự năm 2015 về Tội mua bán người dưới 16 tuổi so với Bộ luật Hình sự năm 1999 là đã quy định chi tiết hành vi khách quan của tội này vào trong luật. Trước đây trong Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định tội danh mua bán người dưới 16 tuổi nhưng không mô tả cụ thể hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm cơ bản mà chỉ quy định “người nào mua bán người thì bị phạt...” vì vậy hành vi khách quan của tội phạm này chính là “hành vi dùng tiền hoặc tài sản hoặc các phương tiện thanh toán khác để trao đổi người như một thứ hàng hóa”[9]. Tuy nhiên, trong Bộ luật Hình sự năm 2015, hành vi khách quan của tội mua bán người dưới 16 tuổi ngoài cách hiểu như Bộ luật Hình sự 1999 thì còn có thêm 2 trường hợp đó là: (i) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc là vì mục đích vô nhân đạo; (ii) Hoặc là hành vi giao người hoặc nhận người chưa diễn ra nhưng người phạm tội đã thực hiện hành vi tuyển mộ (tức là dùng phương thức thủ đoạn khác nhau để có được nạn nhân), chứa chấp hay vận chuyển người (đây đều là những hành vi thực hiện trước cả hành vi chuyển giao người) để thực hiện các hành vi đã nêu trong điểm a, b khoản 1 Điều 151 Bộ luật Hình sự thì cũng đã đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm này. Ví dụ: nếu người phạm tội sử dụng vũ lực để bắt nạn nhân dưới 16 tuổi trở lên nhằm thực hiện hành vi chuyển người để nhận tiền thì đây chính là hành vi khách quan của tội mua bán người dưới 16 tuổi, tuy nhiên trường hợp này chưa chuyển giao người nên không thể thuộc trường hợp tại điểm a khoản 1 Điều 151 mà thuộc điểm c khoản 1 Điều 151 Bộ luật Hình sự.

Tuy nhiên, nếu trong trường hợp một người bắt giữ người dưới 16 tuổi nhưng không thực hiện hành vi chuyển giao cũng như không có mục đích chuyển giao mà tự mình sử dụng người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể người hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác thì định tội danh như thế nào. Ví dụ như một người bắt một đứa trẻ 3 tuổi và tự mình bắt đứa trẻ này đi ăn xin[10] thì tội danh là gì? Rõ ràng nếu theo quy định tại khoản 1 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì không thỏa mãn dấu hiệu định tội của Tội mua bán người dưới 16 tuổi cho nên chỉ có thể định vào Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153 Bộ luật Hình sự năm 2015). Tuy nhiên, định tội danh như thế này theo chúng tôi là không phù hợp với tính chất nguy hiểm của hành vi vì Tội mua bán người dưới 16 tuổi có mức độ nguy hiểm cao hơn Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi[11], cũng như không phù hợp với tinh thần tại Điều 3[12] của Nghị định thư về ngăn ngừa, trấn áp và trừng trị hành vi buôn bán người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung cho công ước của Liên Hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Chính vì vậy tác giả cho rằng cần sửa đổi lại quy định tại khoản 1 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015 để việc định tội danh được chính xác và thống nhất.

Thứ hai, về hành vi khách quan của Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi trong BLHS năm 2015 tại khoản 1 Điều 153 có quy định hành vi chiếm đoạt chính là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi. Tuy nhiên theo tác giả việc quy định hành vi chiếm đoạt là chiếm giữ là không phù hợp. Bởi vì bản chất chiếm đoạt người dưới 16 tuổi là chuyển dịch nạn nhân một cách trái phép, đưa nạn nhân ra khỏi sự quản lý của gia đình hay người quản lý hợp pháp, còn chiếm giữ bản chất là không giao trả, có thể bao gồm sự chuyển dịch và không giao trả hoặc chỉ đơn thuần là không giao trả chứ không có sự chuyển dịch một cách trái pháp luật. Ví dụ, trường hợp A thấy một em bé 5 tuổi bị thất lạc cha mẹ, sau đó A dụ dỗ đưa đứa trẻ về nhà chăm sóc, nuôi dưỡng và A không hề có ý định tìm bố mẹ để trả lại đứa trẻ này thì không thể xử A vào Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều Bộ luật Hình sự năm 2015) được mặc dù A có hành vi chiếm giữ đứa trẻ này. Chính vì vậy nhóm tác giả cho rằng: Không phải tội phạm nào cũng phải quy định theo hướng mô tả vì vậy cần quy định lại dấu hiệu định tội của tội này theo hướng quy định giản đơn và có văn bản hướng dẫn thi hành.

Thứ ba, việc định tội danh đối với hành vi chiếm đoạt người dưới 16 tuổi với hành vi mua bán người dưới 16 tuổi có thể có sự nhầm lẫn vì trong Tội mua bán người dưới 16 tuổi có hành vi chiếm đoạt người dưới 16 tuổi, cụ thể tại điểm c khoản 1 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015 “tuyển mộ…người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi tại điểm a, b khoản này”. Để có sự chặt chẽ trong việc định tội danh cũng như phù hợp với kỷ thuật lập pháp đã được sử dụng trong việc quy định một số tội phạm[13] khi một hành vi có thể được quy định trong nhiều điều luật khác nhau tác giả cho rằng nên quy định trường hợp loại trừ tội danh trong cấu thành cơ bản của Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi.

3. Một số kiến nghị hoàn thiện

Một là, tác giả đề xuất sửa đổi dấu hiệu định tội của Tội mua bán người dưới 16 tuổi theo hướng phù hợp tinh thần của Nghị định thư chống mua bán người mà Việt Nam là thành viên cũng như phù hợp với việc định tội danh. Cụ thể sửa đổi điểm c khoản 1 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015 “Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này” thành “Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác hoặc để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể người hay vì mục đích vô nhân đạo khác”.

Hai là, sửa đổi dấu hiệu định tội của Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 153 Bộ luật Hình sự năm 2015) theo hướng quy định hành vi khách quan của tội này là hành vi chiếm đoạt thay cho hành vi chiếm giữ. Đồng thời, bổ sung thêm trường hợp loại trừ tội danh vào trong cấu thành cơ bản của tội này để việc định tội danh được rõ ràng, cụ thể bổ sung thêm quy định “nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 151 của Bộ luật nàyvào khoản 1 Điều 153 Bộ luật Hình sự năm 2015. Cụ thể sửa đổi khoản 1 Điều 153 Bộ luật Hình sự năm 2015 từ “người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi thì…” thành “người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm đoạt người dưới 16 tuổi nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 151 của Bộ luật này thì …”. Đồng thời, cơ quan có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn cụ thể thế nào là hành vi chiếm đoạt trong Điều 153 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Phan Thị Phương Hiền

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh


[1] Xem Ban soạn thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi), Bản thuyết minh chi tiết về Dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi), Hà Nội, tháng 4/2015, tr. 37, “Điều 120 Bộ luật Hình sự hiện hành quy định ba tội danh trong cùng một điều luật với tính chất, mức độ nguy hiểm khác nhau nhưng lại chung một chính sách xử lý. Qua nghiên cứu, khảo sát thực tiễn nhận thấy, việc quy định tội danh ghép như hiện hành chưa phản ánh đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như chưa đảm bảo việc phân hóa trách nhiệm hình sự. Do vậy, Điều 150, 151 và 152 dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) đã quy định tội mua bán trẻ em, tội đánh tráo, trẻ em và tội chiếm đoạt trẻ em là 03 tội danh độc lập với chính sách xử lý khác nhau”.

[2] Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều điều ước quốc tế. Công ước có ảnh hưởng trực tiếp đến việc quy định lại dấu hiệu định tội của hai tội phạm này trong Bộ luật Hình sự năm 2015 là Nghị định thư về ngăn ngừa, trấn áp và trừng trị hành vi buôn bán người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung cho công ước của Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.

[3] Khoản 1 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:

“Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:

a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo;

b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;

c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người người dưới 16 tuổi để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này”.

[4] Xem Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.

[5] Xem thêm “Phan Thị Phương Hiền - Nguyễn Thị Phương Hoa tại chương 11 - Những điểm mới về các tội xân phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người” trong Nguyễn Thị phương Hoa - Phan Anh Tuấn (đồng chủ biên) (2017), Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Hồng Đức, tr. 168.

[6] Xem thêm “Phan Thị Phương Hiền - Nguyễn Thị Phương Hoa tại chương 11 - Những điểm mới về các tội xân phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người” trong “Nguyễn Thị phương Hoa - Phan Anh Tuấn (đồng chủ biên) (2017), Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Hồng Đức, tr. 168.”

[7] Khoản 1 Điều 153 Bộ luật Hình sự Năm 2015 quy định “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm”.

[8] Xem thêm “Phan Thị Phương Hiền - Nguyễn Thị Phương Hoa tại chương 11 - Những điểm mới về các tội xân phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người” trong “Nguyễn Thị phương Hoa - Phan Anh Tuấn (đồng chủ biên) (2017), Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Hồng Đức, tr. 169”.

[9] Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm-quyển 1), Nxb Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, tr.124; TS Nguyễn Đức Mai - chủ biên (2010), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 - phần các tội phạm, Nxb Chính trị quốc gia, tr.139 “mặt khách quan của tội phạm là hành vi mua bán, trao đổi một con người cụ thể (phụ nữ hoặc nam giới) để lấy tiền, hàng hóa hoặc lợi ích vật chất khác”).

[10] Chiếm đoạt trẻ em và bắt trẻ em đi ăn xin là vì mục đích vô nhân đạo theo nội dung của Thông tư liên tịch số 01/2013/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP ngày 23/7/2013 hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi mua bán người, mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em.

[11] Hiện nay, Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153 Bộ luật Hình sự năm 2015) đã bỏ tình tiết “vì mục đích vô nhân đạo” là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt. Trước đây, trong Bộ luật Hình sự năm 1999, hành vi chiếm đoạt trẻ em dưới 16 tuổi để thực hiện mục đích vô nhân đạo thì sẽ bị áp dụng khung hình phạt tăng nặng. Cũng như tình tiết để lấy bộ phận cơ thể người cũng không phải là tình tiết định khung tăng nặng của tội này.

[12] Trong Nghị định thư này, những thuật ngữ dưới đây được hiểu như sau:

a) “Việc buôn bán người” nghĩa là việc mua, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách sử dụng hoặc đe doạ sử dụng vũ lực hoặc bằng các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, man trá hay lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hoặc bằng việc đưa, nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người nhằm kiểm soát nhữngngười khác. Hành vi bóc lột bao gồm, ít nhất, việc bóc lột mại dâm những người khác hay những hình thức bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hoặc dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hoặc những hình thức tương tự nô lệ, khổ sai hoặc việc lấy các bộ phận cơ thể;

b) Việc một nạn nhân của hành vi buôn bán người chấp nhận sự bóc lột có chủ ý được nêu ra trong khoản (a) của Điều này sẽ là không thích hợp nếu bất kỳ một cách thức nào nêu trong khoản (a) đã được sử dụng.

c) Việc mua, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hay nhận một đứa trẻ nhằm mục đích bóc lột sẽ bị coi là “buôn bán người” ngay cả khi việc này được thực hiện không cần dùng đến bất kỳ một cách thức nào được nói đến trong khoản (a) Điều này;

d) “Trẻ em” là người dưới 18 tuổi.

[13] Ví dụ: Khoản 1 Điều 157 BLHS năm 2015 quy định “Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 153 và Điều 377 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Hay khoản 1 Điều 140 năm 2015 quy định “Người nào đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình nếu không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 185 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm