Abstract: In this article, the authors focus on analyzing how countries apply monism and dualism to the process of internalizing international treaties, thereby providing reference values for Vietnam.
1. Một số góc nhìn lý luận về thuyết nhất nguyên và thuyết nhị nguyên
Về thuyết nhất nguyên (monism), đại diện tiêu biểu cho thuyết này, Hans Kelsen đã khẳng định trong tác phẩm “Principles of International Law” (Những nguyên tắc về pháp luật quốc tế)[1] về tính ưu việt của pháp luật quốc gia trong mối tương quan với pháp luật quốc tế. Theo đó, pháp luật của quốc gia bao trùm lên cả các quy định của pháp luật quốc tế hoặc pháp luật quốc tế cũng chỉ là một bộ phận của pháp luật quốc gia. Theo thuyết nhất nguyên, về cơ bản, các điều ước quốc tế có thể áp dụng trực tiếp trong hệ thống pháp luật quốc gia, hay nói cách khác, điều ước quốc tế cũng có giá trị là một nguồn luật chính thức. Tuy nhiên, trên lý thuyết, có sự khác biệt giữa các quốc gia theo thuyết nhất nguyên về vị trí của nguồn luật này trong hệ thống các nguồn luật, tương quan giá trị pháp lý giữa điều ước quốc tế với các đạo luật của quốc gia. Một số quốc gia coi điều ước quốc tế có giá trị pháp lý cao hơn các đạo luật, các quốc gia khác coi điều ước quốc tế có giá trị pháp lý ngang bằng hoặc thậm chí thấp hơn các đạo luật. Áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế có thể được xem là phương thức “nội luật hóa” một phần hoặc toàn bộ nội dung của điều ước quốc tế thông qua một văn bản như quyết định, nghị quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thừa nhận việc thi hành tất cả các điều ước quốc tế mà mình tham gia sẽ được áp dụng trên phạm vi lãnh thổ mà không cần thiết phải sửa đổi hay ban hành các văn bản pháp luật quốc gia chuyên biệt.
Thuyết nhị nguyên (dualism) trong pháp luật quốc tế gắn liền với tên tuổi của luật gia, quan tòa người Đức Heinrich Triepel[2]. Năm 1899, trong tác phẩm “Volkerrecht und Landesrecht” (Luật quốc tế và luật quốc gia), Triepel cho rằng luật quốc gia và luật quốc tế không chỉ là hai ngành luật khác nhau, mà còn là hai trật tự pháp lý hoàn toàn khác nhau. Hersch Lauterpacht[3] chỉ ra rằng, luật quốc tế đưa ra các điều kiện và nguyên tắc, trong đó, các quốc gia này cần phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Do đó, các điều ước quốc tế không có giá trị là nguồn luật chính thức trong hệ thống pháp luật quốc gia, do đó không thể được áp dụng trực tiếp mà cần phải qua bước chuyển hóa (hoặc nội luật hóa) để đưa nội dung các điều ước quốc tế vào các văn bản của pháp luật quốc gia như luật, nghị định...
Một điểm đáng lưu ý là, ngày càng có nhiều học giả trên thế giới cho rằng, sự phân chia nhất nguyên và nhị nguyên trong mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là “xơ cứng” và thiếu linh hoạt, vì trong xu thế phát triển chung, cách thức nhiều quốc gia xử lý mối quan hệ này chứa đựng cả các yếu tố đặc trưng của thuyết nhất nguyên lẫn thuyết nhị nguyên.
Mỗi phương thức áp dụng điều ước quốc tế kể trên đều có những ưu điểm và hạn chế riêng. Đối với việc áp dụng trực tiếp, tức là trường hợp một điều ước quốc tế sau khi được ký kết sẽ có thể được áp dụng ngay mà không cần có hoạt động chuyển hóa vào pháp luật quốc gia, ưu thế lớn nhất là tính đơn giản và tiết kiệm. Khi không cần có bất kỳ hoạt động lập pháp nào tiếp nối theo việc ký kết điều ước quốc tế, thời gian áp dụng có thể rút ngắn đáng kể, kèm theo đó là khả năng giảm tương ứng của các chi phí áp dụng kèm theo. Văn bản quy định về việc áp dụng trực tiếp thường có giá trị pháp lý tương đương với một đạo luật ký kết và thực thi các điều ước quốc tế nói chung của một quốc gia và nội dung của điều ước quốc tế trở thành bộ phận của hệ thống pháp luật quốc gia, được thực hiện, dẫn chiếu áp dụng như các quy định của pháp luật quốc gia.
Tuy nhiên, bất lợi lớn nhất của phương thức áp dụng trực tiếp là ở vấn đề ngôn ngữ. Trong đại đa số trường hợp, các điều ước quốc tế được ký kết bằng các ngôn ngữ khác nhau, nhiều khi các bản chính thức của điều ước quốc tế hoàn toàn bằng tiếng nước ngoài, được soạn thảo và áp dụng bởi các quốc gia thuộc các truyền thống pháp luật khác nhau. Điều này dẫn tới các quy định, chế định trong điều ước quốc tế có thể không được hiểu đúng, hiểu đủ ở một số quốc gia nhất định, dẫn đến việc áp dụng cũng bị sai lệch, không phù hợp với tinh thần và nội dung của điều ước.
Phương thức thứ hai là điều ước quốc tế sau khi được ký kết thì nội dung cần được chuyển hóa vào các quy định của pháp luật quốc gia. Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, nội luật hóa là việc chuyển hóa quy định trong điều ước quốc tế thành quy phạm pháp luật có giá trị bắt buộc thực hiện đối với tổ chức, cá nhân ở một quốc gia[4]. Đây là cách hiểu nội luật hóa thông dụng gắn với việc áp dụng gián tiếp điều ước quốc tế.
Như vậy, có thể hiểu, nội luật hóa là quá trình đưa nội dung các quy phạm điều ước quốc tế vào nội dung của quy phạm pháp luật trong nước thông qua việc xây dựng, ban hành (sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới) văn bản quy phạm pháp luật trong nước để có nội dung pháp lý đúng với nội dung của các quy định của điều ước đã được ký kết hoặc gia nhập[5]. Quá trình này cũng còn có thể được gọi là “chuyển hóa điều ước quốc tế”.
Việc nội luật hóa được tiến hành sau khi cơ quan có thẩm quyền của quốc gia chính thức xác nhận quy định trong điều ước quốc tế ràng buộc đối với quốc gia đó qua việc phê chuẩn. Nếu trường hợp gia nhập những điều ước quốc tế không qua thủ tục phê chuẩn thì việc nội luật hóa được tiến hành sau khi thực hiện thủ tục gia nhập.
Ưu thế của việc chuyển hóa hay nội luật hóa điều ước quốc tế là giúp các quy định của điều ước quốc tế được hiểu một cách đầy đủ và thống nhất bởi các nhà làm luật và sau đó là bởi tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tổ chức thực hiện hay có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các điều ước quốc tế. Nhưng nhược điểm của việc nội luật hóa, trái ngược với áp dụng trực tiếp, đó là tạo thêm gánh nặng và sức ép công việc cho cơ quan lập pháp quốc gia.
2. Kinh nghiệm vận dụng thuyết nhất nguyên và thuyết nhị nguyên của một số quốc gia trên thế giới
Đặc trưng cơ bản của các hệ thống pháp luật theo thuyết nhất nguyên chính là ở chỗ các điều ước quốc tế có thể được coi là một bộ phận của pháp luật quốc gia mà không cần bất kỳ hành động bổ sung, chỉnh sửa các quy phạm pháp luật nào của cơ quan lập pháp. Bên cạnh đó, nhiều học giả thống nhất quan điểm với nhau rằng, điều này không có nghĩa là ở các quốc gia theo thuyết nhất nguyên, tất cả các điều ước quốc tế đều có giá trị là nguồn luật và đều có thể áp dụng ngay, mà chỉ có một số điều ước quốc tế thỏa mãn một số điều kiện nhất định mới có thể được áp dụng trực tiếp[6].
Có một số điểm đặc trưng cần được đề cập về giá trị pháp lý của điều ước quốc tế tại các quốc gia theo thuyết nhất nguyên như sau:
Thứ nhất, dù điều ước quốc tế có giá trị pháp lý là nguồn luật, nhưng các yêu cầu để điều ước quốc tế trở thành nguồn luật có khác nhau.
Yêu cầu thứ nhất là cần có sự phê chuẩn của cơ quan lập pháp quốc gia. Các quốc gia đều yêu cầu phải có sự phê chuẩn của cơ quan lập pháp bằng một số hình thức nhất định trước khi các cơ quan hành pháp được ủy quyền ký kết các điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước. Tuy nhiên, mặc dù có điểm chung như vậy, nhưng giữa các quốc gia cũng có sự khác biệt rất lớn liên quan tới cách thức chuyển hóa các điều ước quốc tế vào hệ thống pháp luật quốc gia của mỗi nước. Một trong những điểm khác biệt nổi bật là liên quan tới loại điều ước quốc tế cần được cơ quan lập pháp phê chuẩn trước khi có hiệu lực thi hành. Tại Mexico và Columbia, tất cả các điều ước quốc tế đều cần có sự phê chuẩn trước của cơ quan lập pháp[7]. Chile, Hà Lan, Nam Phi và Thụy Sỹ thiết lập các quy tắc chung là các điều ước quốc tế đều cần có sự phê chuẩn của cơ quan lập pháp, nhưng chỉ áp dụng đối với các loại điều ước quốc tế được liệt kê cụ thể[8].
Yêu cầu quan trọng thứ hai được nhiều quốc gia đặt ra là yêu cầu công bố điều ước quốc tế. Tại một số quốc gia, có những điều ước quốc tế được coi là mặc nhiên có hiệu lực pháp luật trong nước cùng lúc với thời điểm điều ước đó có hiệu lực pháp luật ở phạm vi quốc tế, mà không cần phải có bất kỳ thủ tục bổ sung nào khác coi là có hiệu lực trong nước khi cơ quan hành pháp công bố bằng một số hình thức ở phạm vi quốc gia[9].
Yêu cầu thứ ba liên quan tới nội dung của các điều ước quốc tế. Do các điều ước quốc tế là các thỏa thuận và cam kết giữa các quốc gia, nên nhìn chung, nội dung của chúng chứa đựng nghĩa vụ của các quốc gia thực hiện hoặc không thực hiện một số hành vi nhất định. Trong trường hợp đó, chủ quyền quốc gia được xem là yếu tố quan trọng quyết định việc một quốc gia có thực hiện cam kết hay không, việc thực hiện hay không thực hiện không thuộc thẩm quyền của cơ quan tài phán. Chỉ có các điều ước quốc tế có nội dung quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của các thể nhân hay pháp nhân phi nhà nước mới có thể có hiệu lực thi hành trực tiếp và là cơ sở pháp lý để Tòa án các quốc gia áp dụng trong giải quyết các tranh chấp quốc tế.
Thứ hai, khi các điều ước quốc tế có giá trị là nguồn luật và có thể áp dụng trực tiếp sẽ phát sinh vấn đề điều ước quốc tế nằm ở vị trí nào trong thang bậc giá trị pháp lý của các nguồn luật - ít nhất là trong mối quan hệ với các văn bản luật do Nghị viện ban hành.
Quan điểm của các quốc gia theo thuyết nhất nguyên liên quan tới thứ bậc xếp hạng của các điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật nội địa của quốc gia có sự khác nhau. Theo đó, giá trị của điều ước quốc tế có thể thấp hơn luật như ở Nam Phi[10], tương đương với các đạo luật và thấp hơn hiệu lực của Hiến pháp như tại Áo, Ai Cập, Đức, Hoa Kỳ[11] hoặc là cao hơn luật và thấp hơn Hiến pháp như tại Trung Quốc, Pháp, Nhật Bản, Mexico và Ba Lan[12], cũng có quốc gia điều ước quốc tế có giá trị ngang bằng hoặc cao hơn Hiến Pháp như ở Hà Lan, Chi Lê, Thụy Sỹ[13].
Hiến pháp Trung Quốc năm 1982 quy định, Quốc vụ viện quản lý các sự vụ đối ngoại, ký kết các điều ước quốc tế, Ủy ban Thường vụ đại hội đại biểu nhân dân quyết định phê chuẩn và hủy bỏ việc ký kết các điều ước quốc tế, tuy nhiên Hiến pháp không quy định vị trí pháp lý và việc áp dụng các điều ước quốc tế trong nước.
Cộng hòa Pháp được coi là một quốc gia điển hình theo thuyết nhất nguyên. Về thang bậc giá trị của các điều ước quốc tế, theo Điều 55 Hiến pháp Cộng hòa Pháp năm 1958, “các điều ước hay thỏa thuận quốc tế được ký kết hoặc phê chuẩn hợp pháp sẽ có hiệu lực cao hơn so với các đạo luật của Nghị viện, tùy thuộc vào việc áp dụng điều ước đó bởi các đối tác ký kết khác”.
Ở rất nhiều quốc gia theo thuyết nhất nguyên, ngay cả khi điều ước quốc tế có giá trị pháp lý là một đạo luật, nhưng khi chưa có văn bản hướng dẫn thi hành, cơ quan lập pháp đôi khi có thể ban hành văn bản khẳng định việc các Tòa án và các quan chức hành pháp cũng có thể áp dụng điều ước trong thực tiễn pháp lý tại quốc gia đó[14].
Đối với các quốc gia theo thuyết nhị nguyên, điểm nổi bật nhất là không có điều ước quốc tế nào có giá trị là nguồn luật trong hệ thống pháp luật quốc gia, trừ khi cơ quan lập pháp nội luật hóa các điều ước quốc tế đó. Cũng do các điều ước quốc tế không có giá trị nguồn luật, nên vấn đề giá trị pháp lý của các điều ước quốc tế so với pháp luật quốc gia là điều không được đặt ra về mặt lý thuyết. Trong bối cảnh phát triển hiện nay, song song với cách tiếp cận truyền thống, ngày càng có nhiều quốc gia có cách tiếp cận mới, sáng tạo và linh hoạt hơn so với trước trong việc “gán” giá trị pháp lý cho các điều ước quốc tế để thuận lợi hơn cho việc thực hiện.
Cách thứ nhất là trao cho Nghị viện quyền tương đối rộng trong việc “gán” giá trị pháp lý cho các điều ước quốc tế. Quốc gia điển hình cho cách làm này là Vương quốc Anh. Nghị viện có thể ban hành một đạo luật quy định một điều ước quốc tế nào đó “có hiệu lực pháp luật” tại Vương quốc Anh và cũng có thể ban hành một đạo luật trao cho các quan chức liên quan của Chính phủ các quyền cần thiết để thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ một điều ước quốc tế cụ thể nào đó. Nghị viện cũng có thể ban hành luật ủy quyền cho Hoàng gia ban hành các quy định để thực hiện điều ước quốc tế. Do áp dụng nhiều cách thức khác nhau để chuyển hóa điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia nên nhìn chung ở Anh, tại một thời điểm cụ thể nào đó thường khó xác định một quy định, chế định nào đó trong điều ước quốc tế đã được chuyển hóa để có thể được áp dụng trong nước hay chưa.
Một số quốc gia áp dụng cách tiếp cận khác, được các học giả gọi tên là cách thức “bán chuyển hóa” (quasi-incorporation). Đại diện của cách làm bán chuyển hóa là Australia, với các phán quyết của Tòa án cấp cao Australia. Ở Australia, các cơ quan của Chính phủ, những đối tượng có thẩm quyền ra các quyết định hành chính được trao quyền xem xét các quy định trong các điều ước quốc tế khi cân nhắc ban hành các quyết định hành chính thuộc thẩm quyền của mình. Thực tiễn vụ kiện Project Blue Sky[15] là một trường hợp khá điển hình cho cách tiếp cận này. Trong vụ kiện đó, một đạo luật do Australia ban hành đã trực tiếp yêu cầu Cục Phát thanh truyền hình Australia (Australian Broadcasting Authority - ABA) “thực hiện các chức năng của mình theo cách thức phù hợp với các nghĩa vụ của Australia trong bất kỳ hiệp định nào giữa Australia và các quốc gia khác”. Trong vụ kiện này, nguyên đơn lập luận rằng, ABA đã vi phạm quy định của đạo luật trên khi ban hành các quy chế không phù hợp với Hiệp định thương mại song phương giữa Australia và New Zealand. Tòa án sơ thẩm liên bang Australia đã tuyên rằng, ABA không bị bắt buộc phải xem xét hoặc dựa vào các hiệp định thương mại tự do, nếu các hiệp định này có điểm mâu thuẫn với các quy định pháp luật trong nước. Tòa án cấp cao liên bang bác bỏ quan điểm trên và tuyên rằng, ABA không được đưa ra các quy định không phù hợp với hiệp định thương mại tự do, dù nội dung của hiệp định đó chưa được chuyển hóa vào pháp luật nội địa của Australia. Nhìn chung, Tòa án ở nhiều quốc gia theo thuyết nhị nguyên khác hiện nay cũng có quan điểm tương tự như trên.
Điều đáng ngạc nhiên là, các Tòa án thuộc các quốc gia theo thuyết nhị nguyên đã phát triển các chiến lược khác nhau về việc áp dụng các điều ước quốc tế chưa được chuyển hóa thành pháp luật nội địa ngay cả khi chưa có các quy định yêu cầu các quan chức chính phủ phải xem xét các điều ước quốc tế khi ra quyết định. Chẳng hạn tại Australia, trong vụ kiện Bộ Di trú và các vấn đề dân tộc với Teoh[16], Tòa án cấp cao tuyên rằng, các đối tượng có quyền ra quyết định hành chính phải thực hiện trách nhiệm của mình phù hợp với Công ước về Quyền trẻ em - là một điều ước quốc tế còn chưa được chuyển hóa vào pháp luật nội địa, vì việc phê chuẩn điều ước này có nghĩa là các công dân đều có quyền kỳ vọng rằng các quan chức chính phủ sẽ phải hành xử phù hợp với các quy định của Công ước.
Trong vụ Baker kiện Canada vào năm 1999, Tòa án tối cao Canada thể hiện quan điểm và cách làm tương tự như Australia khi tuyên rằng, những người có trách nhiệm ban hành các quyết định hành chính ở Canada phải thực hiện chức năng luật định của mình phù hợp với các quy định của Công ước về Quyền trẻ em, cũng là một công ước chưa được chuyển hóa vào pháp luật nội địa của Canada[17].
Có thể thấy, các Tòa án ở các quốc gia theo thuyết nhị nguyên áp dụng các cách tiếp cận khác nhau để tạo điều kiện cho việc áp dụng các điều ước quốc tế chưa được chuyển hóa hay mới chuyển hóa một phần vào pháp luật nội địa của quốc gia đó. Thêm nữa, các Tòa án ở các quốc gia theo thuyết nhất nguyên khi đưa ra các phán quyết trong giải quyết tranh chấp thường áp dụng các điều ước quốc tế một cách gián tiếp, coi đây là một công cụ hỗ trợ cho việc giải thích Hiến pháp và pháp luật, mà không áp dụng trực tiếp các điều ước quốc tế như các quy định pháp luật. Khó có thể đo lường mức độ thường xuyên của việc áp dụng trực tiếp hay gián tiếp các điều ước quốc tế, nhưng có một số bằng chứng cho thấy, ngay cả tại các quốc gia theo thuyết nhất nguyên, các Tòa án cũng thường ưu tiên áp dụng các điều ước quốc tế một cách gián tiếp hơn là trực tiếp. Qua những phân tích trên, thực tế này làm mờ đi ranh giới giữa cách phân loại truyền thống giữa thuyết nhất nguyên và thuyết nhị nguyên.
3. Một số giá trị tham khảo cho Việt Nam
Ở Việt Nam, Điều 6 Luật Điều ước quốc tế năm 2016 quy định, điều ước quốc tế có thể được áp dụng theo cả hai cách thức là gián tiếp và trực tiếp. Theo Điều 6, việc áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế chỉ giới hạn trong hai trường hợp. Trường hợp đầu tiên là khi có sự khác nhau của quy định điều ước quốc tế và văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam về cùng một vấn đề thì sẽ áp dụng điều ước quốc tế (khoản 1). Nói cách khác, trong trường hợp không có sự khác nhau thì điều ước quốc tế không được áp dụng trực tiếp. Trường hợp thứ hai, được quy định ở khoản 3, là khi có quyết định cho phép áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Để điều ước quốc tế có thể được áp dụng trực tiếp trong trường hợp này, luật quy định có ba điều kiện phải được thỏa mãn: (i) Thời điểm ra quyết định áp dụng trực tiếp là khi thể hiện sự đồng ý chịu ràng buộc; (ii) Quy định của điều ước quốc tế phải đủ rõ và chi tiết để thực hiện; (iii) Có quyết định cho áp dụng trực tiếp của Quốc hội, Chủ tịch nước hay Chính phủ.
Từ những kinh nghiệm vận dụng thuyết nhất nguyên và thuyết nhị nguyên, nhóm tác giả xin đưa ra một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, các điều ước quốc tế thường không quy định cụ thể cách thức áp dụng trực tiếp hay nội luật hóa công ước đối với các quốc gia khi gia nhập hoặc ký kết, mà công việc này hoàn toàn do quốc gia thành viên quyết định. Điều quan trọng là, các quốc gia thành viên cần phải bảo đảm rằng các cam kết phải được thực hiện trên tinh thần thiện chí và trung thực (pacta sunt servanda). Do vậy, ngay từ giai đoạn nghiên cứu, xây dựng hồ sơ gia nhập, ký kết điều ước quốc tế cần thực hiện việc tập hợp, so sánh, đối chiếu, rà soát điều ước quốc tế với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan, đánh giá mức độ phù hợp của điều ước này đối với quy định pháp luật Việt Nam để xác định các vấn đề pháp luật cần điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh.
Thứ hai, đối với quá trình nội luật hóa. Quá trình rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật để nội luật hóa các điều ước quốc tế được thực hiện trên nguyên tắc “không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” (khoản 5 Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015). Do đó, cơ quan chủ trì cần rà soát kỹ các quy định pháp luật quốc gia có liên quan với các cam kết trong điều ước quốc tế, trong trường hợp pháp luật trong nước chưa có quy định hoặc quy định chưa đầy đủ thì cần bổ sung, trường hợp pháp luật trong nước có quy định khác thì cần sửa đổi, thay thế, ban hành văn bản mới nhằm nội luật hóa đầy đủ, chính xác. Bên cạnh đó, cơ quan chủ trì cũng cần cân nhắc, tính toán đến loại hình văn bản quy phạm pháp luật cần sửa đổi, bổ sung thay thế tối ưu, giảm thiểu tốn kém về thời gian, ngân sách nhưng vẫn bảo đảm chuyển hóa đầy đủ các cam kết của Việt Nam khi gia nhập, ký kết điều ước quốc tế.
Thứ ba, sau khi gia nhập, ký kết điều ước quốc tế, chuyển hóa các điều ước quốc tế vào văn bản quy phạm pháp luật trong nước, các cơ quan chủ trì gia nhập, ký kết vẫn cần tuyên truyền, phổ biến về nội dung điều ước quốc tế, các văn bản pháp luật nội luật hóa nhằm thực thi điều ước quốc tế; thường xuyên rà soát, kịp thời hướng dẫn thực thi; trao đổi thông tin với các quốc gia thành viên cũng như các hướng dẫn liên quan của điều ước quốc tế.
ThS. Lê Xuân Tùng
ThS. Đào Bá Minh
Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
[1]. Hans Kelsen, Principles of International Law, Third printing, The Law book Exchange, Ltd, 1952.
[2]. Lando Kirchmair, The Theory of the Law Creators’ Circle: Re-Conceptualizing the Monism – Dualism – Pluralism Debate, German Law Journal 17 (2016), 2, 179 - 214.
[3]. Gleider Hernández, International Law and Municipal Law, Oxford University Press (2019).
[4]. Viện Khoa học pháp lý, Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa và Nxb. Tư pháp, 2006, Mục từ Nội luật hóa, tr. 593.
[5]. Báo cáo phúc trình đề tài khoa học cấp Bộ: Nội luật hóa các điều ước quốc tế Việt Nam ký kết và tham gia phục vụ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, năm 2007.
[6]. Davis Sloss, Domestic Application of Treaty, Santa Clara University Digital Journal. Xem tại https://digitalcommons.law.scu.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1620&context=facpubs, truy cập ngày 20/3/2022.
[7]. Duncan B. Hollis, Merritt R. Blakeslee, and L. Benjamin Ederington, National Treaty Law and Practice , Chapter: Colombia, Boston 2005, pp. 205.
[8]. Duncan B. Hollis, Merritt R. Blakeslee, and L. Benjamin Ederington, National Treaty Law and Practice, Chapter: A Comparative Approach to Treaty Law and Practice, Boston 2005, pp. 41 - 42.
[9]. Duncan B. Hollis, Merritt R. Blakeslee, and L. Benjamin Ederington, National Treaty Law and Practice, Chapter: Russia, pp. 552 - 54; Chapter France, pp. 265 - 67; Chapter Egypt, pp. 238-39; Chapter Japan, pp. 424 - 25; Chapter Chile, pp. 136 - 38, Boston 2005.
[10]. Tại Nam Phi, Điều 231 (4) Hiến pháp Cộng hòa Nam Phi quy định: “Bất kỳ thỏa thuận quốc tế nào cũng sẽ trở thành luật của nước Cộng hòa khi thỏa thuận đó được cơ quan lập pháp quốc gia ban hành dưới dạng một đạo luật; tuy nhiên, một quy định trong thỏa thuận chỉ có thể được trực tiếp áp dụng nếu không trái với các quy định của Hiến pháp hay với các đạo luật của Nghị viện”.
[11]. Duncan B. Hollis, Merritt R. Blakeslee, and L. Benjamin Ederington, National Treaty Law and Practice, Chapter: Austria, pp. 59 - 60 and 67 - 68; Chapter Egypt, pp. 238 - 39, Chapter Germany, pp. 214 - 218; and USA, pp. 789 - 790, Boston 2005.
[12]. Duncan B. Hollis, Merritt R. Blakeslee, and L. Benjamin Ederington, National Treaty Law and Practice, Chapter: Mexico, pp. 451 - 54; Chapter France, pp. 263 - 67; Chapter Poland, pp. 376 - 79; Chapter China, pp. 163 - 65 Boston 2005; and Timothy Webster, International Human Rights Law in Japan: The View at Thirty‘ (2010) 23 Colum. J. Asian L. 241, 245.
[13]. Duncan B. Hollis, Merritt R. Blakeslee, and L. Benjamin Ederington, National Treaty Law and Practice, Chapter Holland, pp. 497 - 99, Chapter Russia, pp. 556; Chapter Chile, pp. 139; Chapter Switzerland, pp. 662, Boston 2005.
[14]. Chẳng hạn, Hoa Kỳ đã ban hành văn bản hướng dẫn đối với Công ước New York; Nam Phi ban hành văn bản hướng dẫn đối với Công ước Warsaw.
[15]. Project Blue Sky Inc. v Australian Broadcasting Auth. (1998) 153 ALR 490.
[16]. Minister of State for Immigration & Ethnic Affairs v Ah Hin Teoh (“Teoh’s case”) [1995] HCA 20.
[17]. Baker v. Canada (Minister of Citizenship and Immigration), [1999] 2 SCR 817.