Thứ tư 19/11/2025 07:51
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Chế định người phiên dịch, người dịch thuật trong tố tụng hình sự - Một số vấn đề cần hoàn thiện

Chế định người phiên dịch, người dịch thuật trong tố tụng hình sự - Một số vấn đề cần hoàn thiện

Bài viết nghiên cứu các quy định về người phiên dịch, người dịch thuật trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) và hoạt động tham gia tố tụng của người phiên dịch, người dịch thuật trong thực tiễn, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định về người phiên dịch, người dịch thuật trong thời gian tới.

1. Quy định về người phiên dịch, người dịch thuật trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021)

Chế định “người phiên dịch, người dịch thuật” đã xuất hiện từ rất sớm trong tố tụng hình sự (TTHS) khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988. Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành, tiếng nói và chữ viết dùng trong TTHS là tiếng Việt: “Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trường hợp này phải có phiên dịch”[1], như: Người nước ngoài, người dân tộc thiểu số hoặc người có nhược điểm về thể chất (người câm, điếc).

Để khắc phục quy định chưa cụ thể về tiêu chuẩn của người phiên dịch và để việc mời người phiên dịch tham gia tố tụng được thực hiện thống nhất, bảo đảm chất lượng phiên dịch cũng như phù hợp với trường hợp dịch văn bản, tài liệu tố tụng, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định rõ hơn địa vị pháp lý của người phiên dịch và bổ sung thêm người tham gia tố tụng là người dịch thuật. Theo khoản 1 Điều 70 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2021 (Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) quy định: “Người phiên dịch, người dịch thuật là người có khả năng phiên dịch, dịch thuật và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt hoặc có tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt”. Như vậy, có thể hiểu, người phiên dịch, người dịch thuật là người có khả năng dịch từ một ngôn ngữ khác ra tiếng Việt và ngược lại, trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt. Người biết chữ của người khuyết tật nhìn hoặc người biết nghe, nói bằng ngôn ngữ, ký hiệu của người khuyết tật nghe, người khuyết tật nói cũng được coi là người phiên dịch. Trường hợp chỉ có người đại diện hoặc người thân thích của người khuyết tật nhìn hoặc người khuyết tật nghe, nói biết được chữ, ngôn ngữ, ký hiệu của người khuyết tật thì người đại diện hoặc người thân thích có thể được cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) chấp nhận làm người phiên dịch cho người khuyết tật đó.

2. Thực tiễn hoạt động tham gia tố tụng của người phiên dịch, người dịch thuật

Thực tiễn TTHS cho thấy, khi THTT các vụ án do người nước ngoài, người dân tộc thiểu số hoặc người có nhược điểm về thể chất (người câm, điếc) thực hiện, đa số các trường hợp cơ quan THTT đều phải trưng cầu phiên dịch. Một số trường hợp tiến hành khởi tố, bắt, giam đối tượng không có người phiên dịch, khi người tiến hành tố tụng đọc và giải thích các văn bản tố tụng, giải thích quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng chỉ truyền đạt bằng tiếng Việt nên đối tượng không hiểu dẫn đến không hợp tác hoặc có hiểu nhưng vờ như không hiểu để gây khó khăn, cản trở hoạt động tố tụng. Xét về tính hợp pháp của các hoạt động này là vi phạm pháp luật tố tụng, không bảo đảm trình tự, thủ tục tố tụng, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia TTHS nói chung và của người nước ngoài, người dân tộc thiểu số hoặc người có nhược điểm về thể chất (người câm, điếc) nói riêng.

Khi tiến hành lấy lời khai, đối chất, thẩm vấn tại phiên tòa, các đối tượng là người nước ngoài, người dân tộc thiểu số hoặc người có nhược điểm về thể chất (người câm, điếc), cơ quan THTT, người THTT thường phải mời người phiên dịch để họ tham gia phiên dịch trong TTHS. Thực tế hiện nay, hệ thống cơ quan có chức năng phiên dịch chuyên ngành và không chuyên ngành, quy định về điều kiện, trách nhiệm của người phiên dịch trong từng lĩnh vực chưa rõ ràng, cụ thể, thiếu thống nhất, đồng bộ, dẫn đến tình trạng tùy tiện trong việc trưng cầu phiên dịch, hiệu quả thấp. Mặt khác, pháp luật TTHS quy định cho phép người tham gia tố tụng được quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình, vì vậy, một số đối tượng là người nước ngoài mặc dù biết tiếng Việt hay một số ngôn ngữ thông dụng khác nhưng không sử dụng mà sử dụng ngôn ngữ bản địa khi giao tiếp với người THTT, hoặc yêu cầu mời người phiên dịch tiếng bản địa. Trong khi đó, người phiên dịch hiện nay chủ yếu dùng tiếng Nga, Anh, Pháp, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật, các tiếng khác như: Thổ Nhĩ Kỳ, Pakistan, Iran… có rất ít người phiên dịch dẫn đến tình trạng không có người phiên dịch trong một số hoạt động TTHS.

Như vậy, người phiên dịch là một trong những người tham gia tố tụng, họ có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tính khách quan, tính hợp pháp của nội dung hoạt động TTHS. Nếu người phiên dịch dù cố ý hay vô ý phiên dịch không đầy đủ, không đúng nội dung của các thông tin trong ngôn ngữ của người tham gia tố tụng ra tiếng Việt thì sẽ làm giảm hoặc làm mất tính khách quan của thông tin. Chính vì tầm quan trọng như vậy của người phiên dịch trong việc bảo đảm giá trị chứng minh của chứng cứ trong hoạt động TTHS nên pháp luật TTHS hiện hành quy định “người phiên dịch” là người tham gia tố tụng chứ không phải là người THTT. Theo pháp luật TTHS, người THTT là người có trách nhiệm chứng minh, do vậy, họ không thể đồng thời làm thêm nhiệm vụ của người phiên dịch vì sẽ không bảo đảm tính khách quan của chứng cứ. Nói cách khác, để bảo đảm tính xác thực, tính khách quan của hoạt động TTHS thì trong những trường hợp đó, phải có người phiên dịch, người phiên dịch phải là một người khác, không phải là người THTT của vụ án đó.

Trong thực tiễn hoạt động tư pháp hình sự hiện nay ở nhiều nơi, nhất là ở miền núi, vùng cao, vùng sâu còn tình trạng thiếu người phiên dịch, vì vậy, cơ quan THTT đã trưng dụng cả những cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân, thậm chí cả điều tra viên làm người phiên dịch ngôn ngữ của người dân tộc thiểu số. Trường hợp này đặt ra vấn đề là, những tình tiết do người phiên dịch này cung cấp có hợp pháp hay không? Về vấn đề này, tác giả cho rằng, nếu vừa là người phiên dịch vừa là điều tra viên hay kiểm sát viên THTT trong vụ án đó thì trường hợp này không hợp pháp và đương nhiên, các tình tiết do người phiên dịch này cung cấp không có giá trị chứng minh; còn nếu người phiên dịch này tuy là cán bộ, chiến sỹ công an, là điều tra viên hay kiểm sát viên nhưng không là người THTT trong vụ án đó, thì các tình tiết do người phiên dịch này cung cấp là hợp pháp, có thể sử dụng trong TTHS. Trong trường hợp này, cán bộ, chiến sỹ công an, điều tra viên hay kiểm sát viên đó sẽ tham gia tố tụng với tư cách là người tham gia tố tụng, họ sẽ có những quyền và nghĩa vụ của người phiên dịch theo quy định của pháp luật. Họ có thể bị Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa để xác định tính chân thực của những thông tin mà họ đã phiên dịch. Cơ sở pháp lý để xác định họ có phải là người THTT hay không là ở chỗ họ có quyết định phân công làm người THTT hay không? Chất lượng phiên dịch cũng là vấn đề đáng quan tâm hiện nay, nhiều phiên tòa hình sự bị cáo, người bị hại là người nước ngoài phản ứng vì phiên dịch viên dịch sai hay dịch không đủ nghĩa; thậm chí có trường hợp, người tham gia tố tụng phải hỗ trợ người phiên dịch viên. Một số người phiên dịch không am hiểu thuật ngữ pháp lý cũng là một trở ngại lớn cho công tác xét xử của Tòa án hiện nay.

Mặt khác, khi thực hiện hoạt động tố tụng mời người phiên dịch, người dịch thuật để dịch các ngôn ngữ khác, dịch cử chỉ của người câm, điếc ra tiếng Việt hoặc dịch các quyết định pháp lý từ tiếng Việt ra ngôn ngữ mà người tham gia tố tụng sử dụng (ví dụ như, dịch bản cáo trạng ra tiếng Anh để giao cáo trạng cho bị can, bị cáo là người nước ngoài) hoặc khi trưng cầu giám định thì theo nguyên tắc chung đối với các hoạt động tố tụng trong vụ án hình sự và theo Luật Giám định tư pháp năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), việc chi trả kinh phí do các cơ quan THTT hình sự chịu trách nhiệm; kinh phí này được lấy từ ngân sách nhà nước; cơ quan THTT triệu tập người phiên dịch có trách nhiệm thanh toán chi phí cho người phiên dịch. Chi phí cho người phiên dịch được lấy từ kinh phí hoạt động hàng năm của cơ quan THTT. Các khoản kinh phí này là loại kinh phí đặc thù theo dự toán hàng năm của các cơ quan THTT.

Hiện nay, khi cần mở phiên xét xử bị cáo là người nước ngoài, Tòa án phải gửi công văn cho Sở Ngoại vụ để Sở Ngoại vụ cử người phiên dịch. Vấn đề đặt ra là, không phải lúc nào Sở Ngoại vụ cũng đáp ứng yêu cầu của cơ quan THTT, vì họ không có chức năng đào tạo, cung cấp phiên dịch viên cho Tòa án. Vì thế, các thẩm phán, thư ký Tòa án thường phải tự liên hệ để tìm người phiên dịch tại các hội dịch thuật. Tuy nhiên, việc tìm và mời được người phiên dịch, người dịch thuật là rất khó khăn, bởi nhiều lý do như: (i) Nhiều người có tâm lý ngại mất thời gian, ngại rắc rối nên không muốn tham gia tố tụng với tư cách là người phiên dịch; (ii) Chi phí mà cơ quan THTT trả cho người phiên dịch, người dịch thuật theo quy định của pháp luật hiện hành là chưa tương xứng và khó thực hiện. Người phiên dịch tại phiên họp giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính và các hoạt động tố tụng khác giải quyết vụ án hình sự, được hưởng chế độ tiền lương, thù lao cho người làm chứng, chế độ tiền công cho người phiên dịch bằng 50% mức chi phí đối với người làm chứng, người phiên dịch khi tham gia phiên tòa quy định tại Điều 16, Điều 17 Nghị định số 81/2014/NĐ-CP ngày 14/8/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của pháp lệnh chi phí giám định, định giá; chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch trong tố tụng.

Thực tiễn cho thấy, người phiên dịch, người dịch thuật tham gia rất nhiều hoạt động TTHS như: Người phiên dịch dịch lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, bị can, bị cáo…; người phiên dịch tham gia hoạt động đối chất, nhận dạng, xem xét dấu vết trên thân thể; người phiên dịch tham gia khi bắt, khám xét, kê biên tài sản; người phiên dịch tham gia phiên tòa; người dịch thuật dịch bản cáo trạng và các quyết định pháp lý…

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chỉ quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của người phiên dịch mà không quy định về quyền của họ. Tuy nhiên, trên cơ sở kế thừa quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của người phiên dịch nhằm bảo đảm thuận lợi cho hoạt động TTHS, phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phiên dịch, người dịch thuật, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng đã bổ sung những quy định về người phiên dịch, người dịch thuật. Theo đó, Điều 70 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ: “2. Người phiên dịch, người dịch thuật có quyền: a. Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; b. Đề nghị cơ quan yêu cầu bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa; c. Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng liên quan đến việc phiên dịch, dịch thuật; d. Được cơ quan yêu cầu chi trả thù lao phiên dịch, dịch thuật và các chế độ khác theo quy định của pháp luật. 3. Người phiên dịch, người dịch thuật có nghĩa vụ: a. Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; b. Phiên dịch, dịch thuật trung thực. Nếu phiên dịch, dịch thuật gian dối thì người phiên dịch, người dịch thuật phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự; c. Giữ bí mật điều tra mà mình biết được khi phiên dịch, dịch thuật; d. Phải cam đoan trước cơ quan đã yêu cầu về việc thực hiện nghĩa vụ của mình. 4. Người phiên dịch, người dịch thuật phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp: a. Đồng thời là bị hại, đương sự; là người đại diện, người thân thích của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo; b. Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản trong vụ án đó; c. Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó. 5. Việc thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật do cơ quan yêu cầu phiên dịch, dịch thuật quyết định. 6. Những quy định tại Điều này cũng áp dụng đối với người biết được cử chỉ, hành vi của người câm, người điếc, chữ của người mù”.

Như vậy, có thể thấy, các quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về người phiên dịch, người dịch thuật cơ bản đáp ứng được yêu cầu, khắc phục được một số vướng mắc trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự. Các quyền và nghĩa vụ của người phiên dịch, người dịch thuật được quy định khá chi tiết và cụ thể. Trong số các nghĩa vụ của người phiên dịch, người dịch thuật, theo điểm a khoản 3 Điều 70 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì họ phải “có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng”. Điều này có nghĩa, sự có mặt của họ trong các giai đoạn TTHS là nghĩa vụ bắt buộc. Tuy nhiên, vì họ chỉ là người hỗ trợ cho cơ quan có thẩm quyền THTT trong quá trình giải quyết vụ án nên có thể vì nhiều lý do khác nhau, họ có thể không muốn thực hiện yêu cầu này từ cơ quan chức năng. Đối với phần lớn người tham gia tố tụng, pháp luật hiện hành đều có quy định về biện pháp cưỡng chế khi họ không thực hiện yêu cầu này mà không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan. Hoặc, một số tư cách tố tụng mặc dù pháp luật không quy định rõ về trường hợp họ không có mặt theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tố tụng mà không có lý do chính đáng nhưng vì họ là người có quyền hoặc lợi ích liên quan trực tiếp đến vụ án nên ít nhất, nếu họ không tham gia thì có thể quyền lợi của họ bị ảnh hưởng. Trong khi đó, người phiên dịch, dịch thuật không thuộc nhóm người có quyền và lợi ích liên quan tới vụ án thì việc từ chối yêu cầu tham gia vụ án trong thực tế có thể sẽ xảy ra và điều này sẽ gây ra những khó khăn nhất định cho quá trình giải quyết vụ án, đặc biệt là những vụ án mà người tham gia tố tụng có ngôn ngữ riêng biệt mà số người phiên dịch được lại rất ít. Vì vậy, khi người phiên dịch, người dịch thuật từ chối yêu cầu tham gia tố tụng mà không có lý do chính đáng nào thì có bị cơ quan có thẩm quyền dẫn giải hay thực hiện các biện pháp, chế tài nào hay không? Vấn đề này vẫn đang còn bị bỏ ngỏ, chưa có cơ sở pháp lý cụ thể để giải quyết[2].

3. Một số kiến nghị

Trên cơ sở phân tích thực tiễn hoạt động tham gia tố tụng của người phiên dịch, người dịch thuật, để quá trình áp dụng Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được thuận lợi và hướng đến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia TTHS nói chung, người phiên dịch, người dịch thuật nói riêng, tác giả đưa ra một số kiến nghị như sau:

Một là, sửa đổi, bổ sung một số quyền, nghĩa vụ của người phiên dịch, người dịch thuật trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Cụ thể:

- Quyền đề nghị người THTT, người tham gia tố tụng giải thích thêm lời nói cần dịch: Vấn đề này sẽ bảo đảm thực hiện có hiệu quả trường hợp người tham gia TTHS không biết tiếng Việt, là người câm, điếc thì người phiên dịch, người dịch thuật phải dịch cho họ nghe, hiểu lời trình bày, các câu hỏi, câu trả lời tại cơ quan THTT, cũng như nội dung quyết định của cơ quan THTT và các vấn đề khác có liên quan đến họ.

- Quyền được đọc, ghi riêng ý kiến kết luận của mình và xác nhận nội dung lời dịch trong văn bản tố tụng hình sự: Đây là một văn bản pháp lý rất quan trọng, không chỉ để kiểm tra xem việc ghi chép lời dịch của người THTT có trung thực, khách quan hay không mà còn nhằm xác nhận tư cách địa vị pháp lý trong TTHS của người phiên dịch và người dịch thuật.

- Quyền từ chối phiên dịch, dịch thuật trong trường hợp có lý do chính đáng: Người phiên dịch, người dịch thuật tham gia TTHS là nhằm hỗ trợ cơ quan THTT, chứ họ không có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan đến vụ án hình sự. Vì vậy, pháp luật TTHS nên quy định cho họ quyền này khi có lý do bất khả kháng không thể tham gia TTHS được.

Hai là, kiến nghị xây dựng và ban hành các quy định về cơ quan có chức năng phiên dịch và người phiên dịch. Cụ thể:

- Từ những khó khăn trong điều tra, truy tố, xét xử người nước ngoài phạm tội, người câm, điếc vì bất đồng ngôn ngữ và những khó khăn khi mời người phiên dịch, tác giả kiến nghị thành lập tổ chức “phiên dịch công”. Thực tiễn tố tụng hình sự cho thấy, các hoạt động lấy lời khai thu thập tài liệu, chứng cứ, tống đạt các quyết định của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử đối với các bị cáo người nước ngoài, người câm, điếc đều cần phiên dịch viên hỗ trợ. Hiện nay, chưa có cơ chế “phiên dịch công” thực hiện theo yêu cầu của cơ quan THTT mà thường phải thực hiện thông qua việc ký hợp đồng dịch vụ với các trung tâm dịch thuật và tính phí theo giá thị trường. Vấn đề này dẫn đến việc, các cơ quan THTT đang mất tính chủ động, phụ thuộc rất nhiều vào các trung tâm dịch thuật, trong khi đó, tiền thù lao cao mà chất lượng phiên dịch trong một số trường hợp lại chưa thực sự hiệu quả. Vì vậy, cần lập tổ chức phiên dịch chuyên ngành - tổ chức “phiên dịch công” do nhà nước quản lý, không chỉ riêng cơ quan THTT mà còn giúp nhiều cơ quan nhà nước khác giải quyết những vấn đề liên quan đến người nước ngoài. Nhà nước nên chủ động đầu tư, đào tạo, thẩm định trước khi công nhận “phiên dịch viên công”. Nếu có tổ chức này, cơ quan THTT chỉ cần gửi yêu cầu là trung tâm có trách nhiệm cử người phiên dịch tham gia hoạt động TTHS. Điều này đáp ứng yêu cầu cho hoạt động TTHS trong thực tiễn hiện nay, khi mà ngày càng có nhiều vụ án liên quan đến người nước ngoài. Mặt khác, tổ chức “phiên dịch công” ngoài việc phiên dịch cho các cơ quan THTT khi có yêu cầu thì vẫn có thể thực hiện việc phiên dịch theo hợp đồng với cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp nào đó để tăng thu nhập.

- Việc Nhà nước đứng ra thành lập một đội ngũ phiên dịch viên có thẩm định chất lượng và ràng buộc trách nhiệm khi thực hiện công việc phiên dịch là cần thiết. Trên thực tế, việc phiên dịch, dịch thuật rất dễ “tam sao thất bản” nên cần có sự quản lý, có điều lệ, quy chế về trách nhiệm. Từ đó, sẽ giúp công tác xử lý vụ̣ án có người nước ngoài, người có nhược điểm về thể chất (người câm, điếc) tham gia tố tụng của các cơ quan THTT hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, cũng cần quy định một số tiêu chuẩn nhất định đối với các phiên dịch viên như ngoài khả năng sử dụng ngôn ngữ nước ngoài lưu loát, họ còn phải có kiến thức nhất định về mặt pháp lý, đi kèm với đó là chế độ thù lao phù hợp cho họ, như vậy, góp phần nâng cao chất lượng phiên dịch nói riêng và bảo đảm chất lượng, hiệu quả hoạt động TTHS ở Việt Nam nói chung nhằm xử lý đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

TS. Trần Thảo

Trường Đại học Cảnh sát nhân dân

[1]. Điều 29 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021).

[2]. Phạm Tú Anh, Hoàn thiện quy định về địa vị pháp lý của người tham gia tố tụng hình sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 384), tháng 7/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam đối với việc thực hiện điều ước quốc tế, từ đó, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, bảo đảm công tác giám sát thực hiện điều ước quốc tế ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả.
Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tóm tắt: Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đề cao quyền tự quyết của các bên, vì thủ tục này chỉ được tiến hành khi các bên có thỏa thuận trọng tài. Cơ chế tự do thỏa thuận đặt ra vấn đề, liệu các bên có được thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện để đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài hay không? Bài viết phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về khả năng thỏa thuận thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, so sánh với pháp luật của một số quốc gia về vấn đề này; từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản số từ kinh nghiệm pháp luật quốc tế và một số quốc gia

Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản số từ kinh nghiệm pháp luật quốc tế và một số quốc gia

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích một số nội dung cơ bản về thế chấp bằng tài sản số trong pháp luật quốc tế và của một số quốc gia; từ đó, kiến nghị một số chính sách để Việt Nam có thể nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hành lang pháp lý phù hợp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, giúp kinh tế tư nhân phát triển mạnh và bền vững hơn.
Xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận như khái niệm, quan điểm và yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương trong bối cảnh hiện nay. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Quy định về quyền bề mặt theo pháp luật dân sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện

Quy định về quyền bề mặt theo pháp luật dân sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về quyền bề mặt qua các thời kỳ; chỉ ra một số bất cập trong quy định pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về quyền bề mặt ở Việt Nam thời gian qua; từ đó, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Trước yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hoàn thiện pháp luật hình sự nói riêng là yêu cầu tất yếu. Bài viết phân tích chính sách, pháp luật hình sự hiện hành và một số yêu cầu đặt ra trong bối cảnh hiện nay, từ đó, đề xuất một số định hướng hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Xuất phát từ luận điểm quá trình tố tụng hình sự là biểu hiện của việc thực hiện quyền tư pháp trong thực tiễn, bài viết đánh giá thực trạng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vấn đề này, từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm tiếp tục kiểm soát có hiệu quả quyền tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian tới.
Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Trọng tài thương mại trực tuyến có thể được coi là sự sáng tạo và nâng cấp so với trọng tài thương mại truyền thống, đặc biệt, trong thời đại công nghệ số và phát triển nền kinh tế số, có rất nhiều hợp đồng thương mại được ký kết thông qua chữ ký số, hợp đồng thương mại điện tử… Trọng tài thương mại trực tuyến là phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thông qua ứng dụng công nghệ thông tin và phương thức điện tử. Bài viết nghiên cứu, làm rõ về trọng tài thương mại trực tuyến; nhận diện những thách thức khi áp dụng trọng tài trực tuyến để giải quyết tranh chấp thương mại; từ đó, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
nha-hang-thai-village
delta-group
khach-san-ladalat
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi