Thứ năm 24/07/2025 10:50
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Chế định người phiên dịch, người dịch thuật trong tố tụng hình sự - Một số vấn đề cần hoàn thiện

Chế định người phiên dịch, người dịch thuật trong tố tụng hình sự - Một số vấn đề cần hoàn thiện

Bài viết nghiên cứu các quy định về người phiên dịch, người dịch thuật trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) và hoạt động tham gia tố tụng của người phiên dịch, người dịch thuật trong thực tiễn, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định về người phiên dịch, người dịch thuật trong thời gian tới.

1. Quy định về người phiên dịch, người dịch thuật trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021)

Chế định “người phiên dịch, người dịch thuật” đã xuất hiện từ rất sớm trong tố tụng hình sự (TTHS) khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988. Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành, tiếng nói và chữ viết dùng trong TTHS là tiếng Việt: “Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trường hợp này phải có phiên dịch”[1], như: Người nước ngoài, người dân tộc thiểu số hoặc người có nhược điểm về thể chất (người câm, điếc).

Để khắc phục quy định chưa cụ thể về tiêu chuẩn của người phiên dịch và để việc mời người phiên dịch tham gia tố tụng được thực hiện thống nhất, bảo đảm chất lượng phiên dịch cũng như phù hợp với trường hợp dịch văn bản, tài liệu tố tụng, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định rõ hơn địa vị pháp lý của người phiên dịch và bổ sung thêm người tham gia tố tụng là người dịch thuật. Theo khoản 1 Điều 70 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2021 (Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) quy định: “Người phiên dịch, người dịch thuật là người có khả năng phiên dịch, dịch thuật và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt hoặc có tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt”. Như vậy, có thể hiểu, người phiên dịch, người dịch thuật là người có khả năng dịch từ một ngôn ngữ khác ra tiếng Việt và ngược lại, trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt. Người biết chữ của người khuyết tật nhìn hoặc người biết nghe, nói bằng ngôn ngữ, ký hiệu của người khuyết tật nghe, người khuyết tật nói cũng được coi là người phiên dịch. Trường hợp chỉ có người đại diện hoặc người thân thích của người khuyết tật nhìn hoặc người khuyết tật nghe, nói biết được chữ, ngôn ngữ, ký hiệu của người khuyết tật thì người đại diện hoặc người thân thích có thể được cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) chấp nhận làm người phiên dịch cho người khuyết tật đó.

2. Thực tiễn hoạt động tham gia tố tụng của người phiên dịch, người dịch thuật

Thực tiễn TTHS cho thấy, khi THTT các vụ án do người nước ngoài, người dân tộc thiểu số hoặc người có nhược điểm về thể chất (người câm, điếc) thực hiện, đa số các trường hợp cơ quan THTT đều phải trưng cầu phiên dịch. Một số trường hợp tiến hành khởi tố, bắt, giam đối tượng không có người phiên dịch, khi người tiến hành tố tụng đọc và giải thích các văn bản tố tụng, giải thích quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng chỉ truyền đạt bằng tiếng Việt nên đối tượng không hiểu dẫn đến không hợp tác hoặc có hiểu nhưng vờ như không hiểu để gây khó khăn, cản trở hoạt động tố tụng. Xét về tính hợp pháp của các hoạt động này là vi phạm pháp luật tố tụng, không bảo đảm trình tự, thủ tục tố tụng, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia TTHS nói chung và của người nước ngoài, người dân tộc thiểu số hoặc người có nhược điểm về thể chất (người câm, điếc) nói riêng.

Khi tiến hành lấy lời khai, đối chất, thẩm vấn tại phiên tòa, các đối tượng là người nước ngoài, người dân tộc thiểu số hoặc người có nhược điểm về thể chất (người câm, điếc), cơ quan THTT, người THTT thường phải mời người phiên dịch để họ tham gia phiên dịch trong TTHS. Thực tế hiện nay, hệ thống cơ quan có chức năng phiên dịch chuyên ngành và không chuyên ngành, quy định về điều kiện, trách nhiệm của người phiên dịch trong từng lĩnh vực chưa rõ ràng, cụ thể, thiếu thống nhất, đồng bộ, dẫn đến tình trạng tùy tiện trong việc trưng cầu phiên dịch, hiệu quả thấp. Mặt khác, pháp luật TTHS quy định cho phép người tham gia tố tụng được quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình, vì vậy, một số đối tượng là người nước ngoài mặc dù biết tiếng Việt hay một số ngôn ngữ thông dụng khác nhưng không sử dụng mà sử dụng ngôn ngữ bản địa khi giao tiếp với người THTT, hoặc yêu cầu mời người phiên dịch tiếng bản địa. Trong khi đó, người phiên dịch hiện nay chủ yếu dùng tiếng Nga, Anh, Pháp, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật, các tiếng khác như: Thổ Nhĩ Kỳ, Pakistan, Iran… có rất ít người phiên dịch dẫn đến tình trạng không có người phiên dịch trong một số hoạt động TTHS.

Như vậy, người phiên dịch là một trong những người tham gia tố tụng, họ có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tính khách quan, tính hợp pháp của nội dung hoạt động TTHS. Nếu người phiên dịch dù cố ý hay vô ý phiên dịch không đầy đủ, không đúng nội dung của các thông tin trong ngôn ngữ của người tham gia tố tụng ra tiếng Việt thì sẽ làm giảm hoặc làm mất tính khách quan của thông tin. Chính vì tầm quan trọng như vậy của người phiên dịch trong việc bảo đảm giá trị chứng minh của chứng cứ trong hoạt động TTHS nên pháp luật TTHS hiện hành quy định “người phiên dịch” là người tham gia tố tụng chứ không phải là người THTT. Theo pháp luật TTHS, người THTT là người có trách nhiệm chứng minh, do vậy, họ không thể đồng thời làm thêm nhiệm vụ của người phiên dịch vì sẽ không bảo đảm tính khách quan của chứng cứ. Nói cách khác, để bảo đảm tính xác thực, tính khách quan của hoạt động TTHS thì trong những trường hợp đó, phải có người phiên dịch, người phiên dịch phải là một người khác, không phải là người THTT của vụ án đó.

Trong thực tiễn hoạt động tư pháp hình sự hiện nay ở nhiều nơi, nhất là ở miền núi, vùng cao, vùng sâu còn tình trạng thiếu người phiên dịch, vì vậy, cơ quan THTT đã trưng dụng cả những cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân, thậm chí cả điều tra viên làm người phiên dịch ngôn ngữ của người dân tộc thiểu số. Trường hợp này đặt ra vấn đề là, những tình tiết do người phiên dịch này cung cấp có hợp pháp hay không? Về vấn đề này, tác giả cho rằng, nếu vừa là người phiên dịch vừa là điều tra viên hay kiểm sát viên THTT trong vụ án đó thì trường hợp này không hợp pháp và đương nhiên, các tình tiết do người phiên dịch này cung cấp không có giá trị chứng minh; còn nếu người phiên dịch này tuy là cán bộ, chiến sỹ công an, là điều tra viên hay kiểm sát viên nhưng không là người THTT trong vụ án đó, thì các tình tiết do người phiên dịch này cung cấp là hợp pháp, có thể sử dụng trong TTHS. Trong trường hợp này, cán bộ, chiến sỹ công an, điều tra viên hay kiểm sát viên đó sẽ tham gia tố tụng với tư cách là người tham gia tố tụng, họ sẽ có những quyền và nghĩa vụ của người phiên dịch theo quy định của pháp luật. Họ có thể bị Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa để xác định tính chân thực của những thông tin mà họ đã phiên dịch. Cơ sở pháp lý để xác định họ có phải là người THTT hay không là ở chỗ họ có quyết định phân công làm người THTT hay không? Chất lượng phiên dịch cũng là vấn đề đáng quan tâm hiện nay, nhiều phiên tòa hình sự bị cáo, người bị hại là người nước ngoài phản ứng vì phiên dịch viên dịch sai hay dịch không đủ nghĩa; thậm chí có trường hợp, người tham gia tố tụng phải hỗ trợ người phiên dịch viên. Một số người phiên dịch không am hiểu thuật ngữ pháp lý cũng là một trở ngại lớn cho công tác xét xử của Tòa án hiện nay.

Mặt khác, khi thực hiện hoạt động tố tụng mời người phiên dịch, người dịch thuật để dịch các ngôn ngữ khác, dịch cử chỉ của người câm, điếc ra tiếng Việt hoặc dịch các quyết định pháp lý từ tiếng Việt ra ngôn ngữ mà người tham gia tố tụng sử dụng (ví dụ như, dịch bản cáo trạng ra tiếng Anh để giao cáo trạng cho bị can, bị cáo là người nước ngoài) hoặc khi trưng cầu giám định thì theo nguyên tắc chung đối với các hoạt động tố tụng trong vụ án hình sự và theo Luật Giám định tư pháp năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), việc chi trả kinh phí do các cơ quan THTT hình sự chịu trách nhiệm; kinh phí này được lấy từ ngân sách nhà nước; cơ quan THTT triệu tập người phiên dịch có trách nhiệm thanh toán chi phí cho người phiên dịch. Chi phí cho người phiên dịch được lấy từ kinh phí hoạt động hàng năm của cơ quan THTT. Các khoản kinh phí này là loại kinh phí đặc thù theo dự toán hàng năm của các cơ quan THTT.

Hiện nay, khi cần mở phiên xét xử bị cáo là người nước ngoài, Tòa án phải gửi công văn cho Sở Ngoại vụ để Sở Ngoại vụ cử người phiên dịch. Vấn đề đặt ra là, không phải lúc nào Sở Ngoại vụ cũng đáp ứng yêu cầu của cơ quan THTT, vì họ không có chức năng đào tạo, cung cấp phiên dịch viên cho Tòa án. Vì thế, các thẩm phán, thư ký Tòa án thường phải tự liên hệ để tìm người phiên dịch tại các hội dịch thuật. Tuy nhiên, việc tìm và mời được người phiên dịch, người dịch thuật là rất khó khăn, bởi nhiều lý do như: (i) Nhiều người có tâm lý ngại mất thời gian, ngại rắc rối nên không muốn tham gia tố tụng với tư cách là người phiên dịch; (ii) Chi phí mà cơ quan THTT trả cho người phiên dịch, người dịch thuật theo quy định của pháp luật hiện hành là chưa tương xứng và khó thực hiện. Người phiên dịch tại phiên họp giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính và các hoạt động tố tụng khác giải quyết vụ án hình sự, được hưởng chế độ tiền lương, thù lao cho người làm chứng, chế độ tiền công cho người phiên dịch bằng 50% mức chi phí đối với người làm chứng, người phiên dịch khi tham gia phiên tòa quy định tại Điều 16, Điều 17 Nghị định số 81/2014/NĐ-CP ngày 14/8/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của pháp lệnh chi phí giám định, định giá; chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch trong tố tụng.

Thực tiễn cho thấy, người phiên dịch, người dịch thuật tham gia rất nhiều hoạt động TTHS như: Người phiên dịch dịch lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, bị can, bị cáo…; người phiên dịch tham gia hoạt động đối chất, nhận dạng, xem xét dấu vết trên thân thể; người phiên dịch tham gia khi bắt, khám xét, kê biên tài sản; người phiên dịch tham gia phiên tòa; người dịch thuật dịch bản cáo trạng và các quyết định pháp lý…

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chỉ quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của người phiên dịch mà không quy định về quyền của họ. Tuy nhiên, trên cơ sở kế thừa quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của người phiên dịch nhằm bảo đảm thuận lợi cho hoạt động TTHS, phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phiên dịch, người dịch thuật, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng đã bổ sung những quy định về người phiên dịch, người dịch thuật. Theo đó, Điều 70 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ: “2. Người phiên dịch, người dịch thuật có quyền: a. Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; b. Đề nghị cơ quan yêu cầu bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa; c. Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng liên quan đến việc phiên dịch, dịch thuật; d. Được cơ quan yêu cầu chi trả thù lao phiên dịch, dịch thuật và các chế độ khác theo quy định của pháp luật. 3. Người phiên dịch, người dịch thuật có nghĩa vụ: a. Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; b. Phiên dịch, dịch thuật trung thực. Nếu phiên dịch, dịch thuật gian dối thì người phiên dịch, người dịch thuật phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự; c. Giữ bí mật điều tra mà mình biết được khi phiên dịch, dịch thuật; d. Phải cam đoan trước cơ quan đã yêu cầu về việc thực hiện nghĩa vụ của mình. 4. Người phiên dịch, người dịch thuật phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp: a. Đồng thời là bị hại, đương sự; là người đại diện, người thân thích của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo; b. Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản trong vụ án đó; c. Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó. 5. Việc thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật do cơ quan yêu cầu phiên dịch, dịch thuật quyết định. 6. Những quy định tại Điều này cũng áp dụng đối với người biết được cử chỉ, hành vi của người câm, người điếc, chữ của người mù”.

Như vậy, có thể thấy, các quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về người phiên dịch, người dịch thuật cơ bản đáp ứng được yêu cầu, khắc phục được một số vướng mắc trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự. Các quyền và nghĩa vụ của người phiên dịch, người dịch thuật được quy định khá chi tiết và cụ thể. Trong số các nghĩa vụ của người phiên dịch, người dịch thuật, theo điểm a khoản 3 Điều 70 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì họ phải “có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng”. Điều này có nghĩa, sự có mặt của họ trong các giai đoạn TTHS là nghĩa vụ bắt buộc. Tuy nhiên, vì họ chỉ là người hỗ trợ cho cơ quan có thẩm quyền THTT trong quá trình giải quyết vụ án nên có thể vì nhiều lý do khác nhau, họ có thể không muốn thực hiện yêu cầu này từ cơ quan chức năng. Đối với phần lớn người tham gia tố tụng, pháp luật hiện hành đều có quy định về biện pháp cưỡng chế khi họ không thực hiện yêu cầu này mà không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan. Hoặc, một số tư cách tố tụng mặc dù pháp luật không quy định rõ về trường hợp họ không có mặt theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tố tụng mà không có lý do chính đáng nhưng vì họ là người có quyền hoặc lợi ích liên quan trực tiếp đến vụ án nên ít nhất, nếu họ không tham gia thì có thể quyền lợi của họ bị ảnh hưởng. Trong khi đó, người phiên dịch, dịch thuật không thuộc nhóm người có quyền và lợi ích liên quan tới vụ án thì việc từ chối yêu cầu tham gia vụ án trong thực tế có thể sẽ xảy ra và điều này sẽ gây ra những khó khăn nhất định cho quá trình giải quyết vụ án, đặc biệt là những vụ án mà người tham gia tố tụng có ngôn ngữ riêng biệt mà số người phiên dịch được lại rất ít. Vì vậy, khi người phiên dịch, người dịch thuật từ chối yêu cầu tham gia tố tụng mà không có lý do chính đáng nào thì có bị cơ quan có thẩm quyền dẫn giải hay thực hiện các biện pháp, chế tài nào hay không? Vấn đề này vẫn đang còn bị bỏ ngỏ, chưa có cơ sở pháp lý cụ thể để giải quyết[2].

3. Một số kiến nghị

Trên cơ sở phân tích thực tiễn hoạt động tham gia tố tụng của người phiên dịch, người dịch thuật, để quá trình áp dụng Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được thuận lợi và hướng đến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia TTHS nói chung, người phiên dịch, người dịch thuật nói riêng, tác giả đưa ra một số kiến nghị như sau:

Một là, sửa đổi, bổ sung một số quyền, nghĩa vụ của người phiên dịch, người dịch thuật trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Cụ thể:

- Quyền đề nghị người THTT, người tham gia tố tụng giải thích thêm lời nói cần dịch: Vấn đề này sẽ bảo đảm thực hiện có hiệu quả trường hợp người tham gia TTHS không biết tiếng Việt, là người câm, điếc thì người phiên dịch, người dịch thuật phải dịch cho họ nghe, hiểu lời trình bày, các câu hỏi, câu trả lời tại cơ quan THTT, cũng như nội dung quyết định của cơ quan THTT và các vấn đề khác có liên quan đến họ.

- Quyền được đọc, ghi riêng ý kiến kết luận của mình và xác nhận nội dung lời dịch trong văn bản tố tụng hình sự: Đây là một văn bản pháp lý rất quan trọng, không chỉ để kiểm tra xem việc ghi chép lời dịch của người THTT có trung thực, khách quan hay không mà còn nhằm xác nhận tư cách địa vị pháp lý trong TTHS của người phiên dịch và người dịch thuật.

- Quyền từ chối phiên dịch, dịch thuật trong trường hợp có lý do chính đáng: Người phiên dịch, người dịch thuật tham gia TTHS là nhằm hỗ trợ cơ quan THTT, chứ họ không có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan đến vụ án hình sự. Vì vậy, pháp luật TTHS nên quy định cho họ quyền này khi có lý do bất khả kháng không thể tham gia TTHS được.

Hai là, kiến nghị xây dựng và ban hành các quy định về cơ quan có chức năng phiên dịch và người phiên dịch. Cụ thể:

- Từ những khó khăn trong điều tra, truy tố, xét xử người nước ngoài phạm tội, người câm, điếc vì bất đồng ngôn ngữ và những khó khăn khi mời người phiên dịch, tác giả kiến nghị thành lập tổ chức “phiên dịch công”. Thực tiễn tố tụng hình sự cho thấy, các hoạt động lấy lời khai thu thập tài liệu, chứng cứ, tống đạt các quyết định của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử đối với các bị cáo người nước ngoài, người câm, điếc đều cần phiên dịch viên hỗ trợ. Hiện nay, chưa có cơ chế “phiên dịch công” thực hiện theo yêu cầu của cơ quan THTT mà thường phải thực hiện thông qua việc ký hợp đồng dịch vụ với các trung tâm dịch thuật và tính phí theo giá thị trường. Vấn đề này dẫn đến việc, các cơ quan THTT đang mất tính chủ động, phụ thuộc rất nhiều vào các trung tâm dịch thuật, trong khi đó, tiền thù lao cao mà chất lượng phiên dịch trong một số trường hợp lại chưa thực sự hiệu quả. Vì vậy, cần lập tổ chức phiên dịch chuyên ngành - tổ chức “phiên dịch công” do nhà nước quản lý, không chỉ riêng cơ quan THTT mà còn giúp nhiều cơ quan nhà nước khác giải quyết những vấn đề liên quan đến người nước ngoài. Nhà nước nên chủ động đầu tư, đào tạo, thẩm định trước khi công nhận “phiên dịch viên công”. Nếu có tổ chức này, cơ quan THTT chỉ cần gửi yêu cầu là trung tâm có trách nhiệm cử người phiên dịch tham gia hoạt động TTHS. Điều này đáp ứng yêu cầu cho hoạt động TTHS trong thực tiễn hiện nay, khi mà ngày càng có nhiều vụ án liên quan đến người nước ngoài. Mặt khác, tổ chức “phiên dịch công” ngoài việc phiên dịch cho các cơ quan THTT khi có yêu cầu thì vẫn có thể thực hiện việc phiên dịch theo hợp đồng với cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp nào đó để tăng thu nhập.

- Việc Nhà nước đứng ra thành lập một đội ngũ phiên dịch viên có thẩm định chất lượng và ràng buộc trách nhiệm khi thực hiện công việc phiên dịch là cần thiết. Trên thực tế, việc phiên dịch, dịch thuật rất dễ “tam sao thất bản” nên cần có sự quản lý, có điều lệ, quy chế về trách nhiệm. Từ đó, sẽ giúp công tác xử lý vụ̣ án có người nước ngoài, người có nhược điểm về thể chất (người câm, điếc) tham gia tố tụng của các cơ quan THTT hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, cũng cần quy định một số tiêu chuẩn nhất định đối với các phiên dịch viên như ngoài khả năng sử dụng ngôn ngữ nước ngoài lưu loát, họ còn phải có kiến thức nhất định về mặt pháp lý, đi kèm với đó là chế độ thù lao phù hợp cho họ, như vậy, góp phần nâng cao chất lượng phiên dịch nói riêng và bảo đảm chất lượng, hiệu quả hoạt động TTHS ở Việt Nam nói chung nhằm xử lý đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

TS. Trần Thảo

Trường Đại học Cảnh sát nhân dân

[1]. Điều 29 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021).

[2]. Phạm Tú Anh, Hoàn thiện quy định về địa vị pháp lý của người tham gia tố tụng hình sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 384), tháng 7/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bàn về luật công, luật tư trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

Bàn về luật công, luật tư trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về việc xây dựng, phân chia hệ thống pháp luật trên nền tảng của luật công, luật tư; làm rõ ý nghĩa, vai trò cơ bản của việc phân chia luật công, luật tư; từ đó, gợi mở một số giải pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện pháp luật về xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại

Hoàn thiện pháp luật về xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại

Bài viết phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn pháp luật về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng tại ngân hàng; đồng thời, làm rõ các vướng mắc, bất cập trong quy định pháp luật hiện hành, đặc biệt, khi có sự tham gia của bên thứ ba như bên tài trợ vốn, bên kiểm soát, bên đầu tư vào quyền tài sản. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật để bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các chủ thể, đồng thời, tăng cường an toàn pháp lý cho hoạt động cấp tín dụng bảo đảm bằng quyền tài sản.
Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Trong bối cảnh công nghệ số phát triển mạnh mẽ, việc bảo vệ dữ liệu cá nhân nói chung, đặc biệt là dữ liệu của trẻ em - đối tượng dễ bị tổn thương - trở thành vấn đề cấp thiết. Thời gian qua, mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em nhưng thực tế vẫn còn nhiều hạn chế, thách thức cần giải quyết. Bài viết tập trung phân tích khung pháp lý hiện hành của Việt Nam về bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em, đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế, đồng thời, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nhằm bảo đảm quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ em trong môi trường số.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Thực tiễn cho thấy, việc thể chế hóa chế định quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm Thi hành Hiến pháp năm 2013 đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng cũng còn hạn chế, khó khăn nhất định. Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân cần thực hiện đúng, đầy đủ trách nhiệm theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và thể chể hóa các chủ trương, chính sách mới của Đảng về đổi mới tư duy xây dựng, thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Bài viết phân tích các quy định về giới hạn và điều kiện áp dụng hình phạt trong luật nhân quyền quốc tế, qua đó, chứng minh luật nhân quyền quốc tế đặt ra những giới hạn và điều kiện về bản chất, mức độ, đối tượng, thủ tục áp dụng hình phạt trong tố tụng hình sự nhằm ngăn chặn sự lạm quyền trong việc phòng, chống tội phạm và thúc đẩy tính nhân đạo của tư pháp hình sự. Đồng thời, bài viết cũng khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm của Cộng hòa liên bang Đức, Na Uy, Canada và Nam Phi, qua đó, gợi ý một số cải cách để Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc góp phần hoàn thiện pháp luật về áp dụng hình phạt tiệm cận hơn với các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế về vấn đề này.
Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Xử phạt vi phạm hành chính là một trong những công cụ hữu hiệu để Nhà nước đấu tranh và phòng ngừa vi phạm hành chính. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính đang được sửa đổi và dự kiến thông qua tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV với nhiều điểm mới, đặc biệt là các quy định liên quan đến thủ tục xử phạt vi phạm hành chính. Bài viết phân tích, luận giải một số vấn đề như điều kiện xử phạt hành chính không lập biên bản, quyền giải trình đối với trường hợp xử phạt theo thủ tục không lập biên bản, thời hạn chuyển biên bản vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt, về người chứng kiến ký biên bản vi phạm hành chính và kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy về định thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Bài viết tập trung phân tích những vướng mắc, bất cập của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2017, 2020, 2022 (Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012) về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan.
Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Theo quy định pháp luật, thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc về Tòa án nhân dân cấp huyện. Để áp dụng biện pháp này, các cơ quan hành chính phải lập hồ sơ đề nghị để Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định cho phép thực hiện. Bài viết nghiên cứu, phân tích về thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đồng thời, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước.
Bất cập trong nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và đề xuất, kiến nghị

Bất cập trong nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và đề xuất, kiến nghị

Bài viết chỉ ra những bất cập về nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và từ đó, đề xuất kiến nghị giúp khắc phục bất cập trong công tác xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức.
Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi