Tóm tắt: Trong bài viết này, tác giả phân tích quy định của pháp luật về xác định những chủ thể có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết lại, đồng thời, đánh giá dưới góc độ thực tiễn những vướng mắc gặp phải và xác định hướng hoàn thiện pháp luật.
Abstract: In this article, the author analyzes the legal provisions on determining the subjects responsible for performing the property obligations left by the deceased, and at the same time, evaluates from a practical perspective the problems encountered and direction to improve the law.
1. Đặt vấn đề
Chết là sự kiện pháp lý làm chấm dứt nhiều quan hệ pháp luật như quan hệ pháp luật lao động, quan hệ vợ chồng. Đồng thời cũng là sự kiện pháp lý làm phát sinh các quan hệ pháp luật mới, chẳng hạn như quan hệ pháp luật về thừa kế, trong đó có quan hệ nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Trước khi chết, một cá nhân có thể còn một số nghĩa vụ chưa hoặc đang thực hiện với chủ thể khác. Trong một số trường hợp, khi cá nhân chết thì nghĩa vụ của họ cũng chấm dứt nếu nghĩa vụ này phải do chính cá nhân đó thực hiện. Ngược lại, có những nghĩa vụ không chấm dứt khi người có nghĩa vụ chết. Căn cứ theo quy định tại Điều 614 Bộ luật Dân sự năm 2015, kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Dựa theo quy định tại Điều 658 Bộ luật Dân sự năm 2015, có thể nhận thấy một số nghĩa vụ tài sản do người chết để lại[1] sẽ được chuyển giao cho một chủ thể khác tiếp tục thực hiện. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, việc xác định được chủ thể có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại không phải lúc nào cũng dễ dàng, cần được nghiên cứu, làm rõ.
2. Chủ thể thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo quy định Bộ luật Dân sự năm 2015
Theo quy định tại Điều 615, Điều 622, Điều 646 Bộ luật Dân sự năm 2015, những chủ thể có nghĩa vụ tài sản do người chết để lại bao gồm:
Thứ nhất, người hưởng thừa kế.
Khi di sản đã được chia, những nghĩa vụ tài sản của người chết chưa được thực hiện hoặc đang thực hiện thì người hưởng thừa kế là người trực tiếp thực hiện nghĩa vụ. Ứng với hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật, người thừa kế bao gồm người thừa kế theo di chúc và người thừa kế theo pháp luật.
Đối với người thừa kế theo di chúc là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào được chỉ định trong di chúc miễn là thỏa mãn những điều kiện về người thừa kế[2], không thuộc trường hợp không được quyền hưởng di sản[3]. Về nguyên tắc, những chủ thể này đều phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng với phần di sản mình được nhận.
Đối với người thừa kế theo pháp luật. Trường hợp, người để lại di sản thừa kế không có di chúc hoặc có di chúc nhưng không phát sinh hiệu lực thì di sản thừa kế được chia cho những người thừa kế theo pháp luật. Người thừa kế theo pháp luật phải là cá nhân. Bao gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột, cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết. Tuy nhiên, không phải hàng thừa kế nào cũng được hưởng di sản thừa kế mà họ được hưởng di sản khi không có ai ở hàng thừa kế trước, hoặc có nhưng họ từ chối, bị truất quyền hưởng di sản. Điều đó cũng có nghĩa, không phải cả ba hàng thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, mà chỉ hàng thừa kế nào được hưởng di sản mới là chủ thể thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.
Nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại thì người thừa kế phải có nghĩa vụ thực hiện bao gồm người thừa kế theo di chúc và người thừa kế theo pháp luật. Trong trường hợp có di chúc nhưng không hợp pháp thì người phải thực hiện nghĩa vụ không phải là người thừa kế theo di chúc mà là người thừa kế theo pháp luật[4]. Người thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại nếu họ được hưởng di sản vì họ chỉ phải thực hiện nghĩa vụ “trong phạm vi di sản”[5]. Vậy, trường hợp người chết không có di sản nhưng có nghĩa vụ và có người thừa kế thì người thừa kế có phải thừa kế nghĩa vụ hay không? Vấn đề thực hiện nghĩa vụ tài sản sẽ không phát sinh vì họ không hưởng di sản và cũng không có di sản để thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại.
Thứ hai, người quản lý di sản đối với di sản chưa được chia thừa kế.
Đối với di sản chưa được chia thừa kế, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại. Vấn đề đặt ra là, người phải thực hiện nghĩa vụ là người thừa kế hay người quản lý tài sản. Bởi suy cho người, người quản lý di sản không đồng thời là người được hưởng di sản thừa kế do người chết để lại. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử có cách hiểu khác nhau, như là:
- Ghi nhận việc thực hiện các nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại thuộc về những người thừa kế là những người hưởng di sản mà người chết để lại dù di sản chưa được chia, không quan trọng ai là người quản lý di sản.
- Chủ thể thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại là người quản lý tài sản chứ không phải tất cả những người thừa kế.
Theo quan điểm của tác giả, chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ vẫn phải là người thừa kế, người quản lý là người thực hiện thay khi di sản chưa được chia thừa kế theo sự thỏa thuận của những người thừa kế mà thôi.
Thứ ba, người được di tặng.
Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc. Về nguyên tắc, người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng. Tuy nhiên, trong trường hợp “toàn bộ di sản không đủ” để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại. Trong trường hợp người chết để lại giá trị tài sản cho người được di tặng rất nhỏ, ít hơn những người thừa kế. Sau khi người thừa kế thực nghĩa vụ tài sản do người chết để lại nhưng không đủ. Vậy có đem phần giá trị tài sản của người được di tặng để thực hiện nghĩa vụ hay không?
Thứ tư, người quản lý tài sản dùng vào việc thờ cúng.
Khoản 2, Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng”. Như vậy, di sản dùng vào việc thờ cúng cũng được dùng để thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ. Vấn đề đặt ra là chủ thể thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trong trường hợp này là người quản lý hay người thừa kế?
Thứ năm, Nhà nước.
Điều 622 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước”. Điều này cho thấy, ngoài những chủ thể trình bày ở trên, Nhà nước với tư cách là chủ thể tiếp nhận tài sản của người chết cũng phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết.
3. Bất cập và hướng hoàn thiện pháp luật
3.1. Trường hợp nhiều người hưởng di sản thừa kế
Pháp luật theo hướng bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba khi người phải thực hiện nghĩa vụ với mình đã chết. Tuy nhiên, nếu nhiều người được hưởng di sản thừa kế, người có quyền có được yêu cầu tất cả những người thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ hay không, hay chỉ được yêu cầu một trong số họ thực hiện nghĩa vụ? Trong trường hợp, những người thừa kế tự thỏa thuận với nhau, cử một người đại diện để thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại thì họ có phải thông báo cho người thứ ba là người có quyền biết để họ có thể thực hiện yêu cầu của mình hay không? Về vấn đề này, Bộ luật Dân sự năm 2015 chưa được quy định rõ, có nên chăng cần có một quy định nhằm ràng buộc trách nhiệm của những chủ thể có nghĩa vụ tài sản do người chết để lại nhằm bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho người thứ ba sau khi người để lại di sản chết. Theo quan điểm của tác giả, để bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba, pháp luật dân sự nên theo hướng bổ sung quy định về xác định chủ thể thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại là những người thừa kế hưởng di sản, họ có nghĩa vụ thông báo cho người thứ ba biết. Trong trường hợp không thông báo, người có quyền được yêu cầu bất kỳ người thừa kế nào phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ với mình.
3.2. Về người di tặng
Như đã phân tích về chủ thể là người di tặng thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại ở trên. Người di tặng không đương nhiên là người thừa kế. Với quy định “toàn bộ di sản không đủ để thực hiện nghĩa vụ” chưa rõ ràng, khó hiểu và phát sinh các vướng mắc sau:
Một là, người chết để lại giá trị di sản cho người được di tặng nhiều hơn người thừa kế, trong phạm vi người thừa kế được hưởng không thực hiện được hết nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại. Trong trường hợp này, người được di tặng có nghĩa vụ lấy tài sản di tặng để thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại hay không? Vì rõ ràng là “toàn bộ di sản” đã không đủ để thực hiện nghĩa vụ.
Hai là, người chết để lại giá trị di sản cho người được di tặng ít hơn những người thừa kế. Toàn bộ di sản của những người thừa kế thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại nhưng không đủ. Vậy với trường hợp này, người di tặng có là chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ hay không? Ngay cả khi giá trị tài sản di tặng rất nhỏ không đáng kể hay chỉ mang tính chất kỷ niệm.
Như vậy, có phải cả hai trường hợp mà tác giả phân tích thì người di tặng để phải có nghĩa vụ hay không? Theo quan điểm của tác giả đối với trường hợp thứ 2, khi giá trị di tặng ít hơn những người thừa kế và có giá trị thấp (với mức cần được xác định rõ ràng) thì không nên đặt ra vẫn đề thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại cho người được di tặng. Xuất phát từ ý nghĩa tốt đẹp như một món quà mà người chết để lại cho người mà họ yêu thương.
3.3. Về người quản lý di sản thờ cúng
Trường hợp người chết lập di chúc có chỉ định việc di sản được dùng vào việc thờ cúng được Nhà nước tôn trọng và bảo đảm. Do đó, về nguyên tắc phần này không được chia thừa kế. Người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng có thể là người được chỉ định trong di chúc, người được những người thừa kế thỏa thuận cử người quản lý di sản, nếu những người thừa đều chết thì phần di sản dùng thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật. Trong trường hợp phát sinh nghĩa vụ tài sản do người chết để lại liên quan đến phân di sản dùng vào thờ cúng thì ai sẽ là người có nghĩa vụ thực hiện? Người được chỉ định trong di chúc? Người thừa kế? Bởi vì người được chỉ định quản lý di sản thờ cúng có thể đồng thời là người thừa kế nhưng cũng có thể không. Theo quan điểm của tác giả, trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại vẫn thuộc về người thừa kế. Bởi lẽ, điều này đã được quy định rõ tại Điều 615 Bộ luật Dân sự năm 2015. Hơn nữa Điều 645 quy định: “Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng”. Với quy định này, có thể hiểu rằng chỉ có người thừa kế họ mới chính xác biết được toàn bộ di sản của người chết có đủ để thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại hay không. Còn nếu hiểu người quản lý di sản thờ cúng là chủ thể buộc phải thực hiện nghĩa vụ thì bản thân họ cũng phải thông báo cho người thừa kế chứ không thể tự mình sử dụng di sản để thực hiện nghĩa vụ được. Khi có sự thống nhất của tất cả những người thừa kế thì di sản dùng vào việc thờ cúng mới được dùng để thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Để thống nhất cách hiểu, thiết nghĩ Bộ luật Dân sự năm 2015 điều chỉnh để tránh trường hợp áp dụng không đồng bộ.
Ngoài ra, Bộ luật Dân sự quy định trách nhiệm của người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại khi di sản của người chết để lại không đủ để thanh toán nhưng lại không quy định rõ ràng khi di sản thờ cúng ấy đã thanh toán nghĩa vụ vẫn còn lại thì có tiếp tục thực hiện việc thờ cúng hay không? Vấn đề thờ cúng là nét đẹp văn hóa dân tộc Việt Nam từ lâu đời cần giữ gìn và phát huy, cũng như góp phần bảo đảm quyền lợi của người quản lý di sản thờ cúng, chủ thể có quyền về tài sản thì cần thiết sửa đổi khoản 2 Điều 645: “Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng nếu giá trị phần di sản dùng vào việc thờ cúng bằng hoặc lớn hơn giá trị hưởng thừa kế”.
ThS. Nguyễn Thị Phương
Giảng viên Luật học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
[1]. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng; tiền cấp dưỡng còn thiếu; chi phí cho việc bảo quản di sản; tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ; tiền công lao động; tiền bồi thường thiệt hại; thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước; các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân; tiền phạt; các chi phí khác.
[2]. Điều 613 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[3]. Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[4]. Đỗ Văn Đại (2016), Luật Thừa kế Việt Nam- Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam.
[5]. Khoản 1, Điều 615 Bộ luật Dân sự năm 2015.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 380), tháng 5/2023)