Thứ năm 06/11/2025 05:14
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Chủ thể thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo quy định Bộ luật Dân sự năm 2015

Chủ thể thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo quy định Bộ luật Dân sự năm 2015

Tóm tắt: Trong bài viết này, tác giả phân tích quy định của pháp luật về xác định những chủ thể có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết lại, đồng thời, đánh giá dưới góc độ thực tiễn những vướng mắc gặp phải và xác định hướng hoàn thiện pháp luật.

Abstract: In this article, the author analyzes the legal provisions on determining the subjects responsible for performing the property obligations left by the deceased, and at the same time, evaluates from a practical perspective the problems encountered and direction to improve the law.

1. Đặt vấn đề

Chết là sự kiện pháp lý làm chấm dứt nhiều quan hệ pháp luật như quan hệ pháp luật lao động, quan hệ vợ chồng. Đồng thời cũng là sự kiện pháp lý làm phát sinh các quan hệ pháp luật mới, chẳng hạn như quan hệ pháp luật về thừa kế, trong đó có quan hệ nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Trước khi chết, một cá nhân có thể còn một số nghĩa vụ chưa hoặc đang thực hiện với chủ thể khác. Trong một số trường hợp, khi cá nhân chết thì nghĩa vụ của họ cũng chấm dứt nếu nghĩa vụ này phải do chính cá nhân đó thực hiện. Ngược lại, có những nghĩa vụ không chấm dứt khi người có nghĩa vụ chết. Căn cứ theo quy định tại Điều 614 Bộ luật Dân sự năm 2015, kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Dựa theo quy định tại Điều 658 Bộ luật Dân sự năm 2015, có thể nhận thấy một số nghĩa vụ tài sản do người chết để lại[1] sẽ được chuyển giao cho một chủ thể khác tiếp tục thực hiện. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, việc xác định được chủ thể có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại không phải lúc nào cũng dễ dàng, cần được nghiên cứu, làm rõ.

2. Chủ thể thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo quy định Bộ luật Dân sự năm 2015

Theo quy định tại Điều 615, Điều 622, Điều 646 Bộ luật Dân sự năm 2015, những chủ thể có nghĩa vụ tài sản do người chết để lại bao gồm:

Thứ nhất, người hưởng thừa kế.

Khi di sản đã được chia, những nghĩa vụ tài sản của người chết chưa được thực hiện hoặc đang thực hiện thì người hưởng thừa kế là người trực tiếp thực hiện nghĩa vụ. Ứng với hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật, người thừa kế bao gồm người thừa kế theo di chúc và người thừa kế theo pháp luật.

Đối với người thừa kế theo di chúc là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào được chỉ định trong di chúc miễn là thỏa mãn những điều kiện về người thừa kế[2], không thuộc trường hợp không được quyền hưởng di sản[3]. Về nguyên tắc, những chủ thể này đều phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng với phần di sản mình được nhận.

Đối với người thừa kế theo pháp luật. Trường hợp, người để lại di sản thừa kế không có di chúc hoặc có di chúc nhưng không phát sinh hiệu lực thì di sản thừa kế được chia cho những người thừa kế theo pháp luật. Người thừa kế theo pháp luật phải là cá nhân. Bao gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột, cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết. Tuy nhiên, không phải hàng thừa kế nào cũng được hưởng di sản thừa kế mà họ được hưởng di sản khi không có ai ở hàng thừa kế trước, hoặc có nhưng họ từ chối, bị truất quyền hưởng di sản. Điều đó cũng có nghĩa, không phải cả ba hàng thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, mà chỉ hàng thừa kế nào được hưởng di sản mới là chủ thể thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.

Nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại thì người thừa kế phải có nghĩa vụ thực hiện bao gồm người thừa kế theo di chúc và người thừa kế theo pháp luật. Trong trường hợp có di chúc nhưng không hợp pháp thì người phải thực hiện nghĩa vụ không phải là người thừa kế theo di chúc mà là người thừa kế theo pháp luật[4]. Người thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại nếu họ được hưởng di sản vì họ chỉ phải thực hiện nghĩa vụ “trong phạm vi di sản”[5]. Vậy, trường hợp người chết không có di sản nhưng có nghĩa vụ và có người thừa kế thì người thừa kế có phải thừa kế nghĩa vụ hay không? Vấn đề thực hiện nghĩa vụ tài sản sẽ không phát sinh vì họ không hưởng di sản và cũng không có di sản để thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại.

Thứ hai, người quản lý di sản đối với di sản chưa được chia thừa kế.

Đối với di sản chưa được chia thừa kế, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại. Vấn đề đặt ra là, người phải thực hiện nghĩa vụ là người thừa kế hay người quản lý tài sản. Bởi suy cho người, người quản lý di sản không đồng thời là người được hưởng di sản thừa kế do người chết để lại. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử có cách hiểu khác nhau, như là:

- Ghi nhận việc thực hiện các nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại thuộc về những người thừa kế là những người hưởng di sản mà người chết để lại dù di sản chưa được chia, không quan trọng ai là người quản lý di sản.

- Chủ thể thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại là người quản lý tài sản chứ không phải tất cả những người thừa kế.

Theo quan điểm của tác giả, chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ vẫn phải là người thừa kế, người quản lý là người thực hiện thay khi di sản chưa được chia thừa kế theo sự thỏa thuận của những người thừa kế mà thôi.

Thứ ba, người được di tặng.

Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc. Về nguyên tắc, người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng. Tuy nhiên, trong trường hợp “toàn bộ di sản không đủ” để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại. Trong trường hợp người chết để lại giá trị tài sản cho người được di tặng rất nhỏ, ít hơn những người thừa kế. Sau khi người thừa kế thực nghĩa vụ tài sản do người chết để lại nhưng không đủ. Vậy có đem phần giá trị tài sản của người được di tặng để thực hiện nghĩa vụ hay không?

Thứ tư, người quản lý tài sản dùng vào việc thờ cúng.

Khoản 2, Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng”. Như vậy, di sản dùng vào việc thờ cúng cũng được dùng để thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ. Vấn đề đặt ra là chủ thể thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trong trường hợp này là người quản lý hay người thừa kế?

Thứ năm, Nhà nước.

Điều 622 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước”. Điều này cho thấy, ngoài những chủ thể trình bày ở trên, Nhà nước với tư cách là chủ thể tiếp nhận tài sản của người chết cũng phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết.

3. Bất cập và hướng hoàn thiện pháp luật

3.1. Trường hợp nhiều người hưởng di sản thừa kế

Pháp luật theo hướng bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba khi người phải thực hiện nghĩa vụ với mình đã chết. Tuy nhiên, nếu nhiều người được hưởng di sản thừa kế, người có quyền có được yêu cầu tất cả những người thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ hay không, hay chỉ được yêu cầu một trong số họ thực hiện nghĩa vụ? Trong trường hợp, những người thừa kế tự thỏa thuận với nhau, cử một người đại diện để thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại thì họ có phải thông báo cho người thứ ba là người có quyền biết để họ có thể thực hiện yêu cầu của mình hay không? Về vấn đề này, Bộ luật Dân sự năm 2015 chưa được quy định rõ, có nên chăng cần có một quy định nhằm ràng buộc trách nhiệm của những chủ thể có nghĩa vụ tài sản do người chết để lại nhằm bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho người thứ ba sau khi người để lại di sản chết. Theo quan điểm của tác giả, để bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba, pháp luật dân sự nên theo hướng bổ sung quy định về xác định chủ thể thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại là những người thừa kế hưởng di sản, họ có nghĩa vụ thông báo cho người thứ ba biết. Trong trường hợp không thông báo, người có quyền được yêu cầu bất kỳ người thừa kế nào phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ với mình.

3.2. Về người di tặng

Như đã phân tích về chủ thể là người di tặng thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại ở trên. Người di tặng không đương nhiên là người thừa kế. Với quy định “toàn bộ di sản không đủ để thực hiện nghĩa vụ” chưa rõ ràng, khó hiểu và phát sinh các vướng mắc sau:

Một là, người chết để lại giá trị di sản cho người được di tặng nhiều hơn người thừa kế, trong phạm vi người thừa kế được hưởng không thực hiện được hết nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại. Trong trường hợp này, người được di tặng có nghĩa vụ lấy tài sản di tặng để thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại hay không? Vì rõ ràng là “toàn bộ di sản” đã không đủ để thực hiện nghĩa vụ.

Hai là, người chết để lại giá trị di sản cho người được di tặng ít hơn những người thừa kế. Toàn bộ di sản của những người thừa kế thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại nhưng không đủ. Vậy với trường hợp này, người di tặng có là chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ hay không? Ngay cả khi giá trị tài sản di tặng rất nhỏ không đáng kể hay chỉ mang tính chất kỷ niệm.

Như vậy, có phải cả hai trường hợp mà tác giả phân tích thì người di tặng để phải có nghĩa vụ hay không? Theo quan điểm của tác giả đối với trường hợp thứ 2, khi giá trị di tặng ít hơn những người thừa kế và có giá trị thấp (với mức cần được xác định rõ ràng) thì không nên đặt ra vẫn đề thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại cho người được di tặng. Xuất phát từ ý nghĩa tốt đẹp như một món quà mà người chết để lại cho người mà họ yêu thương.

3.3. Về người quản lý di sản thờ cúng

Trường hợp người chết lập di chúc có chỉ định việc di sản được dùng vào việc thờ cúng được Nhà nước tôn trọng và bảo đảm. Do đó, về nguyên tắc phần này không được chia thừa kế. Người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng có thể là người được chỉ định trong di chúc, người được những người thừa kế thỏa thuận cử người quản lý di sản, nếu những người thừa đều chết thì phần di sản dùng thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật. Trong trường hợp phát sinh nghĩa vụ tài sản do người chết để lại liên quan đến phân di sản dùng vào thờ cúng thì ai sẽ là người có nghĩa vụ thực hiện? Người được chỉ định trong di chúc? Người thừa kế? Bởi vì người được chỉ định quản lý di sản thờ cúng có thể đồng thời là người thừa kế nhưng cũng có thể không. Theo quan điểm của tác giả, trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại vẫn thuộc về người thừa kế. Bởi lẽ, điều này đã được quy định rõ tại Điều 615 Bộ luật Dân sự năm 2015. Hơn nữa Điều 645 quy định: “Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng”. Với quy định này, có thể hiểu rằng chỉ có người thừa kế họ mới chính xác biết được toàn bộ di sản của người chết có đủ để thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại hay không. Còn nếu hiểu người quản lý di sản thờ cúng là chủ thể buộc phải thực hiện nghĩa vụ thì bản thân họ cũng phải thông báo cho người thừa kế chứ không thể tự mình sử dụng di sản để thực hiện nghĩa vụ được. Khi có sự thống nhất của tất cả những người thừa kế thì di sản dùng vào việc thờ cúng mới được dùng để thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Để thống nhất cách hiểu, thiết nghĩ Bộ luật Dân sự năm 2015 điều chỉnh để tránh trường hợp áp dụng không đồng bộ.

Ngoài ra, Bộ luật Dân sự quy định trách nhiệm của người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại khi di sản của người chết để lại không đủ để thanh toán nhưng lại không quy định rõ ràng khi di sản thờ cúng ấy đã thanh toán nghĩa vụ vẫn còn lại thì có tiếp tục thực hiện việc thờ cúng hay không? Vấn đề thờ cúng là nét đẹp văn hóa dân tộc Việt Nam từ lâu đời cần giữ gìn và phát huy, cũng như góp phần bảo đảm quyền lợi của người quản lý di sản thờ cúng, chủ thể có quyền về tài sản thì cần thiết sửa đổi khoản 2 Điều 645: “Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng nếu giá trị phần di sản dùng vào việc thờ cúng bằng hoặc lớn hơn giá trị hưởng thừa kế”.

ThS. Nguyễn Thị Phương

Giảng viên Luật học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh

[1]. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng; tiền cấp dưỡng còn thiếu; chi phí cho việc bảo quản di sản; tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ; tiền công lao động; tiền bồi thường thiệt hại; thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước; các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân; tiền phạt; các chi phí khác.

[2]. Điều 613 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[3]. Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[4]. Đỗ Văn Đại (2016), Luật Thừa kế Việt Nam- Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam.

[5]. Khoản 1, Điều 615 Bộ luật Dân sự năm 2015.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 380), tháng 5/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam đối với việc thực hiện điều ước quốc tế, từ đó, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, bảo đảm công tác giám sát thực hiện điều ước quốc tế ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả.
Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tóm tắt: Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đề cao quyền tự quyết của các bên, vì thủ tục này chỉ được tiến hành khi các bên có thỏa thuận trọng tài. Cơ chế tự do thỏa thuận đặt ra vấn đề, liệu các bên có được thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện để đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài hay không? Bài viết phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về khả năng thỏa thuận thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, so sánh với pháp luật của một số quốc gia về vấn đề này; từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản số từ kinh nghiệm pháp luật quốc tế và một số quốc gia

Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản số từ kinh nghiệm pháp luật quốc tế và một số quốc gia

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích một số nội dung cơ bản về thế chấp bằng tài sản số trong pháp luật quốc tế và của một số quốc gia; từ đó, kiến nghị một số chính sách để Việt Nam có thể nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hành lang pháp lý phù hợp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, giúp kinh tế tư nhân phát triển mạnh và bền vững hơn.
Xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận như khái niệm, quan điểm và yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương trong bối cảnh hiện nay. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Quy định về quyền bề mặt theo pháp luật dân sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện

Quy định về quyền bề mặt theo pháp luật dân sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về quyền bề mặt qua các thời kỳ; chỉ ra một số bất cập trong quy định pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về quyền bề mặt ở Việt Nam thời gian qua; từ đó, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Trước yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hoàn thiện pháp luật hình sự nói riêng là yêu cầu tất yếu. Bài viết phân tích chính sách, pháp luật hình sự hiện hành và một số yêu cầu đặt ra trong bối cảnh hiện nay, từ đó, đề xuất một số định hướng hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Xuất phát từ luận điểm quá trình tố tụng hình sự là biểu hiện của việc thực hiện quyền tư pháp trong thực tiễn, bài viết đánh giá thực trạng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vấn đề này, từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm tiếp tục kiểm soát có hiệu quả quyền tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian tới.
Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Trọng tài thương mại trực tuyến có thể được coi là sự sáng tạo và nâng cấp so với trọng tài thương mại truyền thống, đặc biệt, trong thời đại công nghệ số và phát triển nền kinh tế số, có rất nhiều hợp đồng thương mại được ký kết thông qua chữ ký số, hợp đồng thương mại điện tử… Trọng tài thương mại trực tuyến là phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thông qua ứng dụng công nghệ thông tin và phương thức điện tử. Bài viết nghiên cứu, làm rõ về trọng tài thương mại trực tuyến; nhận diện những thách thức khi áp dụng trọng tài trực tuyến để giải quyết tranh chấp thương mại; từ đó, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam.
Pháp luật về phòng ngừa tiếng ồn - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng ngừa tiếng ồn - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Thông qua việc phân tích, đánh giá tầm quan trọng của phòng ngừa tiếng ồn và những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật, bài viết đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật điều chỉnh về vấn đề này nhằm góp phần hạn chế tác động tiêu cực từ nguồn, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
Hoàn thiện quy định pháp luật bảo đảm việc làm bền vững trong hoạt động của công ty đa quốc gia

Hoàn thiện quy định pháp luật bảo đảm việc làm bền vững trong hoạt động của công ty đa quốc gia

Việc làm bền vững là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Các công ty đa quốc gia (Multinational Enterprises - MNEs), thông qua hoạt động đầu tư, có vai trò đáng kể trong tạo việc làm, nâng cao thu nhập và thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp. Việt Nam đã nội luật hóa nhiều tiêu chuẩn lao động quốc tế, song còn tồn tại “khoảng trống” pháp lý trong bảo đảm việc làm bền vững, đặc biệt với MNEs. Bài viết phân tích nghĩa vụ của MNEs theo pháp luật quốc tế, đánh giá bất cập trong quy định pháp luật Việt Nam, từ đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện khung pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi người lao động và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững trong bối cảnh hội nhập.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
nha-hang-thai-village
delta-group
khach-san-ladalat
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi