Chủ nhật 14/12/2025 04:36
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Địa điểm giao dịch của văn phòng công chứng: Nên hay không nên?

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, khẳng định chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng là hết sức đúng đắn, đảm bảo tính an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch dân sự và kinh tế, tạo lập môi trường pháp lý tin cậy cho các hoạt động đầu tư kinh doanh, thương mại, thu hút nguồn lực tham gia hoạt động hành nghề công chứng

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, khẳng định chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng là hết sức đúng đắn, đảm bảo tính an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch dân sự và kinh tế, tạo lập môi trường pháp lý tin cậy cho các hoạt động đầu tư kinh doanh, thương mại, thu hút nguồn lực tham gia hoạt động hành nghề công chứng; nâng cao số lượng, chất lượng đội ngũ công chứng viên, đồng thời cũng góp phần quan trọng vào tiến trình cải cách hành chính và cải cách tư pháp.

Thực hiện Luật Công chứng năm 2006 và Luật Công chứng năm 2014, hoạt động công chứng tại Việt Nam đã đạt được những thành tích nhất định, phát triển được một đội ngũ công chứng viên đông đảo về số lượng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vững vàng về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp và hình thành được một mạng lưới các tổ chức hành nghề công chứng rộng khắp tại các tỉnh, thành phố trên cả nước, phân bố hợp lý gắn với địa bàn dân cư, đáp ứng đầy đủ nhu cầu công chứng các hợp đồng, giao dịch của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.

Tuy nhiên, hiện nay hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực công chứng đang tạo ra những khó khăn nhất định cho việc triển khai thực hiện mục tiêu xã hội hóa hoạt động công chứng. Cụ thể, theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, thì các hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất và giao dịch về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, công dân được lựa chọn công chứng hoặc chứng thực[1]. Để làm rõ hơn nội dung quy định của pháp luật về thẩm quyền công chứng và chứng thực hợp đồng, giao dịch, Nghị định số 23/2015/NĐ-CP của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch quy định: Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Phòng Tư pháp) có thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản là động sản và chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản mà di sản là động sản; Ủy ban nhân dân (UBND) xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là UBND cấp xã) có thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản là động sản, chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai, chứng thực hợp đồng, giao dịch về nhà ở theo quy định của Luật Nhà ở, chứng thực di chúc; chứng thực văn bản từ chối nhận di sản và chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản mà di sản là động sản, đất đai, nhà ở[2]. Như vậy, ngoài thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch về động sản, Nghị định số 23/2015/NĐ-CP tiếp tục khẳng định thẩm quyền của UBND cấp xã trong việc chứng thực các hợp đồng, giao dịch liên quan đến thực hiện các quyền của người sử dụng đất, nhà ở và các giao dịch về thừa kế.

Đồng thời, hiện nay theo quy định của Luật Công chứng năm 2014, thì điều kiện để được bổ nhiệm công chứng viên là phải tham gia khóa đào tạo nghề công chứng, sau đó phải tiến hành đăng ký tập sự hành nghề công chứng, đăng ký tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng và người đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng mới được làm thủ tục đề nghị Bộ Tư pháp bổ nhiệm công chứng viên[3]. Như vậy, có thể thấy các điều kiện để được bổ nhiệm làm công chứng viên theo quy định của Luật Công chứng 2014 là rất khắt khe nhưng hệ thống văn bản pháp luật có liên quan đến công chứng lại chưa đảm bảo cho hoạt động công chứng phát triển một cách mạnh mẽ và toàn diện. Vì vậy, chưa huy động được nguồn công chứng viên tham gia thành lập các tổ chức hành nghề công chứng, thực hiện mục tiêu xã hội hóa hoạt động công chứng. Bên cạnh đó, việc Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định số 23/2015/NĐ-CP đều quy định rất rõ và tiếp tục khẳng định quyền của công dân trong việc được lựa chọn công chứng hoặc chứng thực khi thực hiện các hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng đất cũng dẫn đến việc phát triển mạng lưới các tổ chức hành nghề công chứng theo quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ[4] là vô cùng khó khăn, đứng trước nguy cơ không thể thực hiện được, nhất là đối với các tỉnh lẻ. Vì khi pháp luật cho phép công dân được lựa chọn công chứng hoặc chứng thực đối với các hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng đất thì người dân sẽ thiên về lựa chọn chứng thực nhiều hơn, bởi vì lệ phí chứng thực rẻ hơn phí công chứng; mức chi phí chứng thực mà công dân phải trả thêm khi thực hiện chứng thực thấp hơn thù lao dịch vụ công chứng; tâm lý người dân yên tâm, tin tưởng vào việc chứng nhận của cơ quan công quyền hơn và do đặc thù của các tỉnh lẻ, tỉnh nghèo là số lượng các hợp đồng, giao dịch chưa nhiều, ít phức tạp, các địa bàn, khu vực mà các tỉnh sẽ phát triển mạng lưới các tổ chức hành nghề công chứng giai đoạn 2016-2020 phần lớn là những huyện miền núi, vùng sâu, đi lại khó khăn. Do vậy, sẽ chẳng mấy ai mặn mà với việc tham gia thành lập tổ chức hành nghề công chứng ở những huyện nghèo, số lượng hợp đồng ít mà công dân thì được lựa chọn công chứng hoặc chứng thực đối với các hợp đồng, giao dịch để thực hiện mục tiêu xã hội hóa hoạt động công chứng.

Ngoài ra, theo quy định của Luật Công chứng 2014 thì: Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Công chứng năm 2014 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đối với loại hình công ty hợp danh. Văn phòng công chứng phải có từ hai công chứng viên hợp danh trở lên. Văn phòng công chứng không có thành viên góp vốn. Người đại diện theo pháp luật của Văn phòng công chứng là Trưởng Văn phòng. Trưởng Văn phòng công chứng phải là công chứng viên hợp danh của văn phòng công chứng và đã hành nghề công chứng từ 02 năm trở lên[5]. Trong thời hạn 24 tháng kể từ ngày Luật Công chứng năm 2014 có hiệu lực thi hành, văn phòng công chứng do một công chứng viên thành lập theo quy định của Luật Công chứng số 82/2006/QH11 phải chuyển đổi thành văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh[6]. Như vậy, kể từ ngày 01/01/2017, tất cả các văn phòng công chứng trên phạm vi cả nước đều phải được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh. Tuy nhiên, dù được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh nhưng văn phòng công chứng lại không phải là 01 doanh nghiệp mặc dù hiện nay Luật Đầu tư năm 2014 quy định hành nghề công chứng là ngành nghề kinh doanh có điều kiện[7] và theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, thì công ty hợp danh là một doanh nghiệp[8]. Sở dĩ văn phòng công chứng không được xem là một doanh nghiệp là vì trình tự, thủ tục thành lập văn phòng công chứng khác với trình tự, thủ tục thành lập một doanh nghiệp, văn phòng công chứng được thành lập theo một quy trình đặc biệt, đó là văn phòng công chứng phải do Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập, văn phòng công chứng không thực hiện hoạt động đăng ký kinh doanh mà chỉ thực hiện việc đăng ký hoạt động với cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực công chứng là Sở Tư pháp[9], người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp do doanh nghiệp tự quyết định, trong khi đó đối với văn phòng công chứng thì người đại diện theo pháp luật phải là trưởng văn phòng công chứng và theo quy định của Luật Công chứng năm 2014, thì Trưởng Văn phòng công chứng phải là công chứng viên hợp danh của văn phòng công chứng và đã hành nghề công chứng từ 02 năm trở lên. Ngoài ra, vì không phải là doanh nghiệp nên trong quá trình tổ chức và hoạt động văn phòng công chứng không có các thủ tục giải thể, phá sản như đối với 01 doanh nghiệp.

Vấn đề ở đây chính là việc xác định văn phòng công chứng không phải là một doanh nghiệp đang tạo ra những bất lợi cho các văn phòng công chứng so với các doanh nghiệp và điều này dẫn đến hệ quả là không thúc đẩy việc phát triển nguồn công chứng viên và các tổ chức hành nghề công chứng để thực hiện mục tiêu xã hội hóa hoạt động công chứng. Cụ thể, Luật Công chứng năm 2014 quy định văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh, nhưng văn phòng công chứng lại không phải là công ty hợp danh (doanh nghiệp), nên không có thành viên góp vốn. Trong khi đó, theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, thì ngoài các thành viên hợp danh, công ty hợp danh có thể có thêm thành viên góp vốn[10]. Như vậy, việc hạn chế không cho phép văn phòng công chứng có thành viên góp vốn đã dẫn đến hạn chế nguồn tài chính của văn phòng công chứng, trong khi nguồn tài chính này sẽ mang lại những lợi thế nhất định nào đó cho chính các văn phòng công chứng như việc sử dụng nguồn tài chính để mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho các công chứng viên với mức cao nhất có thể, đều này vừa tránh được tình trạng các văn phòng công chứng không mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên theo quy định của Luật Công chứng[11], vừa tránh tình trạng các văn phòng công chứng chỉ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho các công chứng viên của văn phòng công chứng với mức thấp nhất hoặc rất thấp để hoàn thành nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, khi có rủi ro nghề nghiệp xảy ra thì không đủ khả năng để đền bù thiệt hại, ảnh hưởng đến hoạt động của văn phòng công chứng hoặc nguồn tài chính sẽ được các văn phòng công chứng đầu tư vào việc xây dựng trụ sở của văn phòng công chứng, mua sắm các loại máy móc, thiết bị như máy soi, chụp, kiểm tra giấy tờ giả, đầu tư vào việc xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc tra cứu các thông tin về hợp đồng, giao dịch... để phục vụ cho hoạt động của văn phòng công chứng được tốt hơn, đảm bảo an toàn cho các công chứng viên khi ký công chứng các hợp đồng, giao dịch về bất động sản... Mặt khác, theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Nghị định số 29/2015/NĐ-CP thì “Công chứng viên đang là Trưởng Văn phòng công chứng hoặc đang là công chứng viên hợp danh của Văn phòng công chứng không được tham gia đấu giá quyền nhận chuyển đổi Phòng công chứng”. Như vậy, dù văn phòng công chứng không phải là doanh nghiệp nhưng thành viên hợp danh của văn phòng công chứng lại chịu sự điều chỉnh như thành viên hợp danh của công ty hợp danh là doanh nghiệp. Đây là sự không công bằng đối với công chứng viên hợp danh của các văn phòng công chứng, vì quy định này hạn chế quyền được nhận chuyển đổi Phòng công chứng của các công chứng viên hợp danh của các văn phòng công chứng để đầu tư, mở rộng phạm vi hoạt động, cung cấp dịch vụ công của các công chứng viên hợp danh của các văn phòng công chứng. Ngoài ra, vì văn phòng công chứng không phải là doanh nghiệp, nên trong quá trình hoạt động, các văn phòng công chứng không được mở các chi nhánh, văn phòng đại diện để mở rộng phạm vi hoạt động mình. Điều này cũng hạn chế hoạt động của các văn phòng công chứng được thành lập ở những địa bàn vùng sâu, đi lại khó khăn có số lượng hợp đồng, giao dịch ít trong việc cạnh tranh với các văn phòng công chứng được thành lập ở những địa bàn trung tâm có lợi thế về số lượng hợp đồng, giao dịch nhiều.

Thiết nghĩ, để huy động được nguồn công chứng viên tham gia thành lập các văn phòng công chứng, thực hiện mục tiêu xã hội hóa hoạt động công chứng, trong giai đoạn hiện nay khi mà thể chế pháp luật để điều chỉnh tổ chức và hoạt động của văn phòng công chứng chưa hoàn thiện thì pháp luật cần xem xét có cơ chế đặc thù nhằm tạo điều kiện cho hoạt động công chứng phát triển. Đó là việc xem xét sửa đổi quy định nghiêm cấm văn phòng công chứng mở cơ sở, địa điểm giao dịch khác ngoài trụ sở của văn phòng công chứng[12]. Vì việc cho phép các văn phòng công chứng được mở các cơ sở hay địa điểm giao dịch mang lại rất nhiều các lợi ích cho các văn phòng công chứng và xã hội như:

Thứ nhất, đảm bảo cho các văn phòng công chứng (kể cả các văn phòng công chứng được thành lập ở các huyện vùng sâu, vùng đi lại khó khăn) được cạnh tranh với nhau trong quá trình hoạt động hành nghề công chứng, hạn chế tình trạng văn phòng công chứng ở địa bàn trung tâm có lợi thế quá lớn so với các văn phòng công chứng được thành lập ở các huyện vùng ven, vùng sâu, vùng đi lại khó khăn, điều này không thúc đẩy được việc phát triển các văn phòng công chứng ở các huyện nghèo, vùng sâu, vùng đi lại khó khăn.

Thứ hai, vì có sự cạnh tranh giữa các tổ chức hành nghề công chứng, nên sẽ thu hút được nguồn công chứng viên tham gia thành lập các văn phòng công chứng ở những địa bàn vùng sâu, vùng đi lại khó khăn.

Thứ ba, khi có sự cạnh tranh giữa các văn phòng công chứng với nhau thì bắt buộc các văn phòng công chứng phải nâng cao chất lượng dịch vụ và chất lượng phục vụ. Như vậy, sẽ đảm bảo chất lượng dịch vụ và phục vụ của các văn phòng công chứng được tốt hơn.

Thứ tư, đảm bảo phục vụ tốt hơn cho nhu cầu của người dân, người dân sẽ là người được hưởng lợi nhiều nhất. Vì khi có sự cạnh tranh với nhau thì các văn phòng công chứng đòi hỏi phải có những chính sách phục vụ tốt nhất cho khách hàng, chẳng hạn như thu thù lao công chứng rất thấp hoặc có thể không thu thù lao công chứng... để thu hút khách hàng.

Thứ năm, đảm bảo thực hiện được quy định tại Điều 44 Luật Công chứng năm 2014 là việc công chứng phải được thực hiện tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng, hạn chế tình trạng công chứng ngoài trụ sở của các công chứng viên khi việc công chứng ngoài trụ sở không thuộc trường hợp người yêu cầu công chứng là người già yếu, không thể đi lại được, người đang bị tạm giữ, tạm giam, đang thi hành án phạt tù hoặc có lý do chính đáng khác không thể đến trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng, đảm bảo cho hoạt động công chứng được phát triển lành mạnh, đúng quy định của pháp luật và mang lại tính an toàn pháp lý cao cho các hợp đồng, giao dịch.

Để hoạt động công chứng phát triển lành mạnh, thực hiện mục tiêu xã hội hóa hoạt động công chứng, pháp luật cần phải có cơ chế điều chỉnh phù hợp, tương thích với tính chất, tổ chức và hoạt động của các văn phòng công chứng, đảm bảo cho các văn phòng công chứng được cạnh tranh với nhau một cách lành mạnh trong việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Có như vậy hoạt động công chứng tại Việt Nam mới có thể phát triển được và phát triển theo xu hướng hội nhập với khu vực và thế giới.

Cẩm Lai
Phòng Bổ trợ tư pháp, Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ngãi


[1] Khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013.

[2] Điều 5 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP

[3] Điều 8, Điều 9, Điều 11 và Điều 12 Luật Công chứng năm 2014.

[4] Quyết định số 2104/QĐ-TTg ngày 29/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020.

[5] Khoản 1 và khoản 2 Điều 22 Luật Công chứng năm 2014.

[6] Khoản 1 Điều 79 Luật Công chứng năm 2014.

[7] Phụ lục 4 - Danh mục nghành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện ban hành kèm theo Luật Đầu tư năm 2014.

[8] Điều 1 Luật Doanh nghiệp năm 2014.

[9] Điều 23 Luật Công chứng năm 2014.

[10] Khoản 1 Điều 172 Luật Doanh nghiệp năm 2014.

[11] Khoản 5 Điều 33 Luật Công chứng năm 2014.

[12] Điểm i khoản 1 Điều 7 Luật Công chứng năm 2014.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết phân tích vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước.
Thay thế hồ sơ giấy bằng dữ liệu điện tử từ ngày 01/01/2026

Thay thế hồ sơ giấy bằng dữ liệu điện tử từ ngày 01/01/2026

Ngày 15/11/2025, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 66.7/2025/NQ-CP quy định cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính dựa trên dữ liệu (Nghị quyết số 66.7/2025/NQ-CP). Nghị quyết số 66.7/2025/NQ-CP là một trong những văn bản được ban hành theo cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật tại Nghị quyết số 206/2025/QH15 của Quốc hội ngày 24/6/2025.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: “Cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính dựa trên dữ liệu là giải pháp căn cơ, toàn diện”

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: “Cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính dựa trên dữ liệu là giải pháp căn cơ, toàn diện”

Trao đổi với báo chí, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh nhấn mạnh: Việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC) dựa trên dữ liệu không chỉ nhằm tinh gọn quy trình, giảm thiểu chi phí xã hội mà còn là giải pháp căn cơ để xây dựng nền hành chính phục vụ, hiện đại, minh bạch. Đây cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong triển khai chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Bổ trợ tư pháp Việt Nam: Kiến tạo niềm tin và hành trình phát triển

Bổ trợ tư pháp Việt Nam: Kiến tạo niềm tin và hành trình phát triển

Sự phát triển của hoạt động bổ trợ tư pháp là một hành trình có tính lịch sử, gắn liền và phản ánh tầm nhìn, sự chủ động của ngành Tư pháp Việt Nam qua từng giai đoạn, từ bối cảnh đất nước mới giành độc lập đến công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.
Kết quả đạt được và những đóng góp của công tác lý lịch tư pháp trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Kết quả đạt được và những đóng góp của công tác lý lịch tư pháp trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Trong quá trình gần 15 năm (2010 - 2025) thực hiện, công tác lý lịch tư pháp đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Kiện toàn tổ chức bộ máy và phát triển nhân lực Bộ, ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Kiện toàn tổ chức bộ máy và phát triển nhân lực Bộ, ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Giai đoạn 2015 - 2025, công tác tổ chức bộ máy, cán bộ của Bộ, ngành Tư pháp có bước phát triển toàn diện cả về số lượng và chất lượng, nhân tố quyết định việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp được Đảng, Nhà nước giao.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng của Bộ, ngành Tư pháp tạo động lực thúc đẩy các tập thể, cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao

Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng của Bộ, ngành Tư pháp tạo động lực thúc đẩy các tập thể, cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao

Trong suốt 80 năm xây dựng và phát triển, kể từ ngày thành lập cho đến nay, ngành Tư pháp luôn quán triệt, vận dụng sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua và những người thi đua là những người yêu nước nhất”. Thấm nhuần lời dạy của Người, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ, ngành Tư pháp đã thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức tổ chức và đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước trên tất cả các lĩnh vực hoạt động, tạo động lực để cá nhân, tập thể trong toàn Ngành vượt qua khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được Đảng, Nhà nước giao, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức và phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực dân sự - kinh tế, quản lý nhà nước trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa - thành tựu và yêu cầu đặt ra trong kỷ nguyên mới

Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực dân sự - kinh tế, quản lý nhà nước trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa - thành tựu và yêu cầu đặt ra trong kỷ nguyên mới

Trong bối cảnh mới, để thực hiện nhiệm vụ được giao, lĩnh vực pháp luật dân sự - kinh tế cần định hướng cải cách sâu sắc, trong đó, nổi bật là tư duy đổi mới toàn diện về cách xây dựng và thực thi pháp luật. Mục tiêu xây dựng hệ thống pháp luật lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm. Pháp luật phải trở nên dễ hiểu, dễ tiếp cận, dễ tuân thủ; ngôn ngữ luật cần đơn giản hơn, thủ tục pháp lý cần được số hóa mạnh mẽ và các dịch vụ hỗ trợ pháp lý cần phổ cập rộng rãi.
Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung; thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung; thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1858/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung; thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp.
Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực thừa phát lại thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực thừa phát lại thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1836/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực thừa phát lại thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp.
Công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực công chứng thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực công chứng thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1859/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực công chứng thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực chứng thực thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực chứng thực thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1857/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực chứng thực thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.

Giải trừ trách nhiệm của công chức thuế, tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp

Luật số 56/2024/QH15 bổ sung quy định về trách nhiệm của công chức thuế theo hướng giải trừ trách nhiệm cho công chức thuế khi có gian lận trong kê khai, cung cấp thông tin tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp chân chính.

Cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng

Hải Phòng là địa phương luôn nỗ lực, tích cực thực hiện cải cách thủ tục hành chính, với mục tiêu tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, trong đó phải kể đến lĩnh vực cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Điều này được thể hiện rõ nét qua sự quyết tâm, chủ động, sáng tạo trong triển khai, thực hiện các văn bản, quy định nhằm cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân trong bối cảnh chuyển đổi số và những khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết bàn về những vấn đề cơ bản của quyền riêng tư và sự cần thiết phải bảo vệ quyền riêng tư; phân tích các vấn đề pháp lý về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân theo pháp luật quốc tế, từ đó đúc kết và đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này tại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số.

Theo dõi chúng tôi trên: