
![]() |
Toàn cảnh phiên họp. |
Báo cáo về sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục năm 2019, đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết, trong quá trình triển khai thực hiện, Luật Giáo dục năm 2019 đã góp phần tạo hành lang pháp lý quan trọng cho sự phát triển của hệ thống giáo dục quốc dân. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy một số bất cập, hạn chế cần được tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, tập trung vào một số nội dung như: (i) một số quy định còn mang tính nguyên tắc, thiếu tính cụ thể, gây khó khăn trong công tác hướng dẫn và thực thi ở cơ sở, đặc biệt là trong phân cấp, phân quyền và cơ chế tự chủ của các cơ sở giáo dục; (ii) các cấp học của hệ thống giáo dục quốc dân chưa được xác định rõ; (iii) hoạt động của Hội đồng trường của trường mầm non, trường phổ thông công lập còn mang tính hình thức; (iv) hệ thống chính sách về nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn thiếu đồng bộ, chưa thực sự tạo động lực mạnh mẽ để thu hút, giữ chân và phát triển đội ngũ; (v) quy định về chương trình, sách giáo khoa, tài liệu giáo dục địa phương mặc dù đã có đổi mới nhưng vẫn còn gây tranh luận về tính ổn định, minh bạch trong quy trình thẩm định và lựa chọn; (vi) công tác kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên không hiệu quả, không bảo đảm tính khả thi...
Trước những hạn chế, bất cập nêu trên, Bộ Chính trị đã có Kết luận số 91-KL/TW ngày 12/8/2024 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Kết luận số 91-KL/TW đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là “tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về giáo dục và đào tạo, tháo gỡ những điểm nghẽn…”; “tăng quyền tự chủ, nâng cao trách nhiệm giải trình, phát huy dân chủ trong các cơ sở giáo dục và đào tạo; hoàn thiện chính sách, cơ chế tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học phù hợp với xu thế chung của thế giới”.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1705/QĐ-TTg ngày 31/12/2024 phê duyệt chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; trong đó, một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ, giải pháp về việc “rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, các cơ chế, chính sách về giáo dục, đào tạo và các lĩnh vực có liên quan theo hướng khoa học, hiện đại, đồng bộ, liên thông, phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế và thực tiễn ở nước ta, tạo hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho phát triển giáo dục và đào tạo”. Để tiếp tục hoàn thiện các quy định và tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành Luật Giáo dục năm 2019, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế và chuyển đổi số ngày càng sâu rộng như hiện nay; đồng thời, để phù hợp, thống nhất với các quy định pháp luật mới được ban hành trong quá trình thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước và sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp thì việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục năm 2019 là thực sự cần thiết.
![]() |
Đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo phát biểu tại phiên họp. |
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục (dự thảo Luật) gồm 02 điều: (i) Điều 1 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, gồm: sửa đổi, bổ sung Điều 6 (Hệ thống giáo dục quốc dân); Điều 12 (Văn bằng, chứng chỉ); Điều 14 (Phổ cập giáo dục và giáo dục bắt buộc); Điều 19 (Hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số); Điều 32 (Sách giáo khoa giáo dục phổ thông và tài liệu giáo dục địa phương); Điều 34 (Xác nhận hoàn thành chương trình tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông và cấp bằng tốt nghiệp trung học phổ thông); Điều 36 (Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp); Điều 55 (Hội đồng trường); Điều 66 (Định danh nhà giáo); Điều 71 (Báo cáo viên); Điều 73 (Đào tạo nguồn nhà giáo); Điều 103 (Chính sách ưu đãi đối với cơ sở giáo dục dân lập, tư thục); Điều 109 (Công nhận văn bằng nước ngoài); Mục 3 Chương VIII (Đánh giá chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục); bổ sung: Điều 71a (Cán bộ quản lý cơ sở giáo dục); Điều 71b (Cán bộ quản lý giáo dục); Điều 71c (Các nhân sự khác trong cơ sở giáo dục); sửa đổi, bổ sung một số khoản, điểm của các điều 9, 28, 45, 47, 52, 54, 61, 63, 85, 99, 102, 103, 104 và 107; sửa kỹ thuật 15 điều (các điều 8, 23, 26, 43, 44, 47, 52, 53, 62, 64, 65, 72, 74, 80, 104); bãi bỏ khoản 3 Điều 10, Điều 18; khoản 2 Điều 28; khoản 5 Điều 44, Điều 49, Điều 50, Điều 51; điểm b, điểm c, điểm đ khoản 1 Điều 52, Điều 68, Điều 113, Điều 115; (ii) Điều 2 quy định về hiệu lực thi hành.
Tại phiên họp thẩm định, các đại biểu tham dự đã tập trung thảo luận và cho ý kiến góp ý đối với dự thảo Luật, cụ thể: (i) hiện nay, có bốn cấp giáo dục gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Đã có hai luật riêng cho giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Vì vậy, cơ quan chủ trì soạn thảo cần rà soát lại các điều, khoản liên quan đến giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học để tránh chồng chéo, mâu thuẫn giữa các luật, tạo điều kiện cho giáo dục phát triển; (ii) về vấn đề sách giáo khoa, đây được coi là vấn đề “nhức nhối, trăn trở” của cả ngành giáo dục và xã hội. Nhiều ý kiến cho rằng cần có giải pháp xây dựng và triển khai sách giáo khoa điện tử ở tất cả các cấp học để khắc phục tình trạng thiếu thống nhất, lãng phí và phòng chống tiêu cực trong biên soạn, xuất bản. Bên cạnh đó, cần có một sách giáo khoa điện tử chung cho tất cả các cấp, các trường, các loại hình để tránh việc biên soạn và thành lập hội đồng hàng năm gây nhiều tốn kém, "phiền phức". Đồng thời, ứng dụng ngay sách giáo khoa điện tử trong bối cảnh chuyển đổi số như hiện nay; (iii) về vấn đề hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số tại Điều 19 dự thảo Luật, việc giáo dục cho học sinh về trí tuệ nhân tạo và phổ cập bình dân học vụ số vẫn chưa được đề cập. Việc giáo dục về trí tuệ nhân tạo cần bắt đầu từ học sinh cấp phổ thông, không chỉ ở cấp đại học hay dạy nghề để nuôi dưỡng và phát triển những lĩnh vực này. Vì vậy, cần có những quy định cụ thể, sâu hơn về vấn đề này để góp phần xây dựng kinh tế số và thực hiện chuyển đổi số; (iv) theo quy định của Luật Cán bộ, công chức, người thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo theo thẩm quyền được giao trong cơ quan quản lý giáo dục là công chức và chịu sự điều chỉnh của pháp luật về công chức. Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo không sử dụng khái niệm “cán bộ quản lý giáo dục” trong dự thảo Luật; (v) dự thảo Luật quy định nội dung liên quan đến nhà giáo (viên chức) được cấp có thẩm quyền chuyển sang vị trí cán bộ quản lý giáo dục (công chức) cũng không phù hợp với phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật và gây xung đột trong quản lý nhà nước về công chức vì việc này thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về công chức như Nghị định số 116/2024/NĐ-CP ngày 17/9/2024 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 138/2020/NĐ-CP ngày 27/11/2020 quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức và Nghị định số 06/2023/NĐ-CP ngày 21/02/2023 quy định về kiểm định chất lượng đầu vào công chức. Vì vậy, việc bổ sung quy định tại Điều 71b dự thảo Luật được coi là không cần thiết, trùng lặp với các quy định của các luật khác nên đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc loại bỏ quy định tại Điều 71b dự thảo Luật; (vi) liên quan đến các Điều ước quốc tế, một trong những cam kết trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em và quyền giáo dục của trẻ em là từng bước thực hiện quyền học hành của trẻ em trên cơ sở bình đẳng về cơ hội. Bình đẳng về cơ hội có nghĩa là người học ở khắp nơi trên Việt Nam sẽ được tiếp cận giáo dục một cách bình đẳng. Hiện tại, Việt Nam có hai cơ chế chính sách đặc thù về giáo dục cho hai thành phố lớn là Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Những cơ chế đặc thù này mang tính ưu đãi hơn cho việc phát triển giáo dục đào tạo tại hai thành phố này, dẫn đến khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em ở đây có thể tốt hơn so với các địa phương khác. Do đó, có ý kiến đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc nghiên cứu các cơ chế đặc thù có nên được luật hóa vào trong Luật Giáo dục lần này hay không. Mục đích là để có thể quy định về mặt nguyên tắc rằng những địa phương khác nếu đáp ứng được những điều kiện tương tự như thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thì cũng sẽ được hưởng những cơ chế chính sách đặc thù như vậy. Điều này nhằm bảo đảm trẻ em ở các địa phương khác cũng có thể được hưởng nền giáo dục chất lượng cao tương tự như ở Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, từ đó bảo đảm việc tiếp cận giáo dục trên cơ sở bình đẳng về cơ hội.
![]() |
Đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp phát biểu kết luận phiên họp. |
Phát biểu kết luận phiên họp thẩm định, đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp ghi nhận và đánh giá cao nỗ lực của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc hoàn thiện hồ sơ dự thảo Luật theo đúng quy định mới của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025, bảo đảm tiến độ, chất lượng và thậm chí vượt yêu cầu trong nhiều nội dung.
Bên cạnh đó, Thứ trưởng nhấn mạnh, ngành giáo dục thời gian qua đã có nhiều kết quả tích cực trong việc thực hiện các chủ trương, định hướng lớn của Đảng về phát triển giáo dục, đào tạo. Nhiều nội dung trong Kết luận số 91-KL/TW ngày 12/8/2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã được ngành triển khai bài bản, thể chế hóa kịp thời. Hệ thống mạng lưới cơ sở giáo dục được mở rộng, các chỉ số tiếp cận giáo dục được cải thiện. Việt Nam cũng là một trong số những quốc gia sớm hoàn thành các mục tiêu phát triển bền vững trong lĩnh vực giáo dục do Liên hợp quốc đề ra. Giáo dục phổ thông có bước đổi mới căn bản, hướng đến phát triển phẩm chất, năng lực học sinh; giáo dục mũi nhọn tiếp tục đạt thành tích cao trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, Thứ trưởng cũng thẳng thắn chỉ ra một số vấn đề và yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp thu, điều chỉnh và hoàn thiện dự thảo Luật, cụ thể:
Thứ nhất, cần lồng ghép và cụ thể hóa đầy đủ các chủ trương, định hướng lớn từ các nghị quyết, chỉ đạo chiến lược gần đây của Bộ Chính trị. Đặc biệt, cần thể hiện rõ các nội dung mang tính đột phá như phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ từ 03 đến 05 tuổi, phát huy cơ chế tự chủ, thu hút nguồn lực xã hội trong và ngoài nước, đề xuất các chính sách ưu đãi vượt trội cho giáo dục.
Thứ hai, vấn đề bình đẳng giữa giáo dục công lập và ngoài công lập. Dự thảo Luật hiện đang có sự phân biệt về cơ chế hội đồng trường giữa các loại hình cơ sở giáo dục, điều này cần được rà soát để bảo đảm sự minh bạch, bình đẳng và phù hợp với tinh thần các nghị quyết của Đảng. Nếu bỏ hội đồng trường ở khối công lập, cần quy định rõ ràng cơ chế chuyển tiếp, bảo đảm có tổ chức đại diện quyền sở hữu chịu trách nhiệm giám sát hoạt động của nhà trường.
Thứ ba, bổ sung thêm các quy định mang tính ưu tiên, đột phá, đặc biệt là các chính sách đào tạo, bồi dưỡng tài năng trong các lĩnh vực trọng điểm; thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ trong nhà trường; từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục theo Kết luận số 91- KL/TW, ngày 12/8/2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo để được phép tổ chức đào tạo ở trình độ cao đẳng, trung cấp đối với ngành nghề đặc thù.
Thứ tư, về tính thống nhất và đồng bộ, dự thảo Luật cơ bản phù hợp. Tuy nhiên, cần tránh chồng chéo với các luật chuyên ngành như Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức và đặc biệt là dự thảo Luật Nhà giáo đang được xây dựng. Không nên sửa đổi các điều khoản liên quan đến nhà giáo trong dự thảo Luật Giáo dục hiện hành để bảo đảm tính nhất quán trong hệ thống pháp luật.
Thứ năm, cần có đánh giá tác động rõ ràng, đầy đủ đối với những chính sách mới, nhất là những thay đổi lớn như cải tổ hệ thống giáo dục nghề nghiệp. Những thay đổi này cần được lượng hóa về tác động, có cơ chế chuyển tiếp cụ thể và các biện pháp giám sát, kiểm tra minh bạch nhằm bảo đảm quyền lợi của người học và hiệu quả thực thi chính sách./.