Thứ sáu 06/06/2025 01:38
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật của một số quốc gia trên thế giới

Bài viết qua việc tham khảo pháp luật một số nước trên thế giới, đánh giá khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh (CTKLM) theo Luật Cạnh tranh năm 2004 của Việt Nam còn phù hợp hay cần thiết phải sửa đổi, bổ sung sau hơn 10 năm áp dụng Luật Cạnh tranh.

Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau để tồn tại và phát triển. Bên cạnh những doanh nghiệp sử dụng phương thức cạnh tranh trung thực phải đầu tư vào nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới; sáng tạo những sản phẩm đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng; không thiếu những doanh nghiệp cạnh tranh bằng việc sử dụng những thủ đoạn không minh bạch, lợi dụng thành quả đầu tư của doanh nghiệp khác để mang lại lợi nhuận cho bản thân mình... Hành vi đó xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của đối thủ cạnh tranh và đến người tiêu dùng, ở mức độ nhất định còn tác động tiêu cực đến cả nền kinh tế.

Bài viết qua việc tham khảo pháp luật một số nước trên thế giới, đánh giá khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh (CTKLM) theo Luật Cạnh tranh năm 2004 của Việt Nam còn phù hợp hay cần thiết phải sửa đổi, bổ sung sau hơn 10 năm áp dụng Luật Cạnh tranh.

CTKLM xét theo nghĩa rộng, là hành vi trái ngược với cạnh tranh lành mạnh, bao gồm tất cả những hành vi do doanh nghiệp thực hiện, bằng cách sử dụng các thủ đoạn bất chính, gây thiệt hại cho thị trường hoặc cho chủ thể kinh doanh khác trên thị trường.

Hiểu theo nghĩa này nên thời kỳ đầu CTKLM bao gồm cả hành vi hạn chế cạnh tranh. Đây là những hành vi đi ngược lại với trật tự cạnh tranh lành mạnh nói chung. Đặc thù của nhóm hành vi này là luôn hướng tới việc hình thành một sức mạnh thị trường hoặc tận dụng sức mạnh thị trường để làm cho tình trạng cạnh tranh trên thị trường bị biến dạng. Sự biến dạng thị trường ở đây biểu hiện qua việc thay đổi cấu trúc thị trường, thay đổi tương quan cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, loại bỏ đối thủ, ngăn cản đối thủ tiềm năng để làm giảm đi sức ép cạnh tranh...

Đến nay, dù được điều chỉnh bằng những văn bản pháp luật riêng biệt hay được điều chỉnh chung trong cùng một đạo luật thì pháp luật cạnh tranh của các quốc gia đều thừa nhận sự khác biệt giữa hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi CTKLM.

Hành vi CTKLM, theo nghĩa hẹp không bao gồm các hành vi hạn chế cạnh tranh, xuất hiện từ rất lâu trên thế giới nhưng cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm nhất quán áp dụng cho tất cả các quốc gia.

Điều 10 bis Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp được coi là văn bản pháp lý đầu tiên có tính quốc tế đưa ra khái niệm về hành vi CTKLM: “Bất cứ hành động nào trái với tập quán trung thực, thiện chí trong công nghiệp và thương mại đều bị coi là hành vi CTKLM”. Công ước cũng đưa ra 03 loại hành vi chính của CTKLM.

Khái niệm trên cho thấy tiêu chí đánh giá quan trọng nhất về tính lành mạnh của một hành vi cạnh tranh là tập quán trung thực, thiện chí. Công ước không đưa ra giải thích, hướng dẫn thế nào là tập quán trung thực, thiện chí nhưng theo nhiều học giả, có thể hiểu là những tập quán thương mại (quy tắc xử sự có hệ thống, những thói quen thương mại phổ biến được áp dụng một cách thường xuyên, liên tục trong một thời gian dài, có nội dung rõ ràng) trong đó các bên thực hiện hành vi với ý định tốt một cách ngay thẳng, thiện chí, chính trực.

Tiêu chí này này khi áp dụng vào mỗi quốc gia lại được quy định theo những cách khác nhau bởi mỗi quốc gia có thể có những khác biệt phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và lịch sử của quốc gia đó. Như vậy, với cách xây dựng khái niệm như vậy, Công ước để ngỏ khái niệm để pháp luật các quốc gia thành viên có điều kiện cụ thể hóa thành khái niệm của quốc gia mình.

Pháp là một trong những quốc gia được coi là nơi khởi đầu của pháp luật về hành vi CTKLM. Lý thuyết về CTKLM của Pháp (concurrence déloyale) được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Điều 1382 và 1383 của Bộ luật Dân sự Pháp năm 1904) và cụ thể hóa thông qua các án lệ. Theo các học giả và án lệ có thể hiểu “bị coi là hành vi CTKLM tất cả những hành vi trái với xử sự trung thực trong thương mại”[1]

Từ năm 2005, để triển khai các quy định trong Chỉ thị số 2005/29/EC về các hành vi CTKLM, Pháp đã nội luật hóa khá chi tiết trong Bộ luật tiêu dùng sửa đổi, bổ sung gần nhất ngày 11/3/2017, hành vi CTKLM được quy định tại Điều L. 121-1:

“Những hành vi CTKLM đều bị cấm.

Một hành vi bị coi là CTKLM khi nó đi ngược lại với những yêu cầu về sự cần mẫn nghề nghiệp và làm bóp méo hoặc có khả năng làm bóp méo những xử sự kinh tế của người tiêu dùng trung bình, là người có được thông tin ở mức độ thông thường, tinh ý và thận trọng ở mức độ vừa phải về một hàng hóa hoặc một dịch vụ. Tính không lành mạnh của một hành vi thương mại nhằm đến một loại khách hàng riêng biệt hoặc một nhóm khách hàng dễ bị xâm phạm vì lý do khuyết tật về trí tuệ hoặc thể chất, về lứa tuổi của họ hoặc sự cả tin của họ được đánh giá trên cơ sở khả năng phân biệt ở mức độ trung bình của loại khách hàng hay của nhóm đó.

Coi là hành vi CTKLM, một cách cụ thể những hành vi thương mại gây nhầm lẫn quy định từ Điều L.121-2 đến L. 121-4 và những hành vi thương mại mang tính cưỡng bức quy định tại Điều L. 121- 6 và Điều L.121-7”.

Theo quy định trên, tiêu chí đánh giá tính lành mạnh hay không của hành vi cạnh tranh trong pháp luật của Cộng hòa Pháp căn cứ vào yêu cầu cần mẫn nghề nghiệp và khả năng bóp méo xử sự kinh tế của khách hàng trung bình. Theo đó, cần mẫn nghề nghiệp có thể hiểu “là một dạng quy định cụ thể, được sử dụng bởi các thẩm phán, mà tính pháp quy của nó là đối tượng tranh cãi và nó đưa ra được một số giá trị căn bản mang tính quy luật, đạo đức hay tính hợp lý”[2].

Không nằm trong nhóm những quốc gia đi đầu nhưng Liên bang Nga cũng chú trọng xây dựng pháp luật về cạnh tranh. Theo Điều 4 Luật về bảo vệ cạnh tranh năm 2006 của Liên bang Nga, CTKLM được hiểu là “bất kỳ hành vi nào của chủ thể kinh doanh (nhóm chủ thể) nhằm hướng tới việc có được những ưu thế trong hoạt động thương mại, trái với pháp luật, tập quán thương mại và yêu cầu trật tự, hợp lý và công bằng mà gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại cho các chủ thể kinh doanh khác, đối thủ cạnh tranh hoặc làm tổn hại hay có thể làm tổn hại tới uy tín thương mại của đối thủ”.

Khái niệm trên cho thấy, hành vi CTKLM của Liên bang Nga được xác định dựa trên các dấu hiệu: Chủ thể kinh doanh; hành vi gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại; và yêu cầu trật tự, hợp lý và công bằng. Tiêu chí “trật tự, hợp lý và công bằng” trong thương mại cũng là tiêu chí kém rõ ràng và có thể biến đổi theo thời gian.

Mặc dù là quốc gia có các quy định về hạn chế cạnh tranh từ rất lâu nhưng các quy định về CTKLM của Hoa Kỳ tương đối phân tán, có sự khác biệt giữa pháp luật liên bang và pháp luật của các tiểu bang, có hành vi CTKLM được giải quyết trong lĩnh vực hoạt động của luật tư và có hành vi CTKLM thuộc sự quản lý của Ủy ban thương mại liên bang (FTC). Năm 1994, Đạo luật của Ủy ban thương mại liên bang FTC sửa đổi, khái niệm hành vi CTKLM được định nghĩa là “hành vi gây ra hoặc có thể gây ra những thiệt hại đáng kể mà người tiêu dùng không thể tránh được một cách hợp lý và thiệt hại gây ra này không bù lại được những lợi ích tương ứng do hành vi đó tạo ra cho người tiêu dùng hoặc đối thủ cạnh tranh”[3].

Ủy ban thương mại liên bang đã hình thành 3 tiêu chí để đánh giá hành vi CTKLM, đó là: Gây thiệt hại cho người tiêu dùng; vi phạm các chính sách xã hội hiện hành; vô đạo đức và không cẩn trọng. Nhưng giải thích cụ thể thế nào là vô đạo đức và không cẩn trọng? thế nào là gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì Nghị viện trao quyền giải thích cho Ủy ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ. Trong bản Tuyên bố chính sách về hành vi không lành mạnh, FTC nêu rõ: “Luật thành văn chỉ định khung cho các điều khoản chung do Nghị viện nhận thấy rằng không thể soạn ra một danh sách các hành vi không lành mạnh mà không bị lạc hậu một cách nhanh chóng hoặc tạo ra những kẽ hở cho việc vi phạm. Nhiệm vụ xác định các hành vi CTKLM thuộc về Ủy ban, với hy vọng các tiêu chí đánh giá sẽ được xem xét và phát triển”.

Như vậy có thể thấy, quy định về hành vi CTKLM trong pháp luật của các quốc gia đều không thể chỉ ra các dấu hiệu để nhận diện được hành vi CTKLM mà đều dẫn chiếu đến những khái niệm thuộc phạm trù đạo đức, văn hóa như tập quán trung thực trong thương mại, xử sự trung thực trong thương mại, cần mẫn nghề nghiệp, yêu cầu trật tự, hợp lý, công bằng... Các tiêu chí này phản ánh các quan niệm đa chiều về kinh tế, xã hội, văn hoá, đạo đức, triết học … tồn tại trong một xã hội, do đó sẽ khác nhau giữa các quốc gia hoặc thậm chí trong cùng một quốc gia. Theo thời gian, các tiêu chí này cũng có thể thay đổi. Mặt khác, trong hoạt động kinh doanh, các chủ thể kinh doanh phải luôn luôn sáng tạo ra những cái mới, độc đáo để thu hút lựa chọn của người tiêu dùng, và chừng nào chưa đạt đến mô hình cạnh tranh hoàn hảo thì chừng đó sẽ luôn song hành là những hành vi CTKLM cũng rất mang tính sáng tạo của đối thủ cạnh tranh. Do đó, việc xây dựng được một khái niệm về hành vi CTKLM vừa bao quát được các hoạt động cạnh tranh hiện tại và tương lai, vừa xác định mọi hành vi bị ngăn cấm vừa đủ linh hoạt để thích nghi với hoạt động biến đổi không ngừng của thị trường là một thách thức khó vượt qua.

Chính vì thế, giải pháp thông dụng được Công ước và pháp luật các quốc gia sử dụng đó là vừa đưa ra khái niệm mở về hành vi CTKLM vừa đưa ra danh sách các hành vi CTKLM.

Luật Cạnh tranh năm 2004 của Việt Nam cũng sử dụng giải pháp trên, theo đó, hành vi CTKLM được được quy định một cách chung nhất, linh hoạt là « hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh trái với tập quán trung thực, thiện chí, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của chủ thể kinh doanh khác hoặc của người tiêu dùng ».

Quy định này xác định đầy đủ các dấu hiệu của hành vi CTKLM:

- Vì mục đích cạnh tranh;

- Nhằm vào đối thủ cạnh tranh hiện hữu (cụ thể), hay nói khác đi sẽ không thể nói đến CTKLM khi mà các chủ thể không ở trong vị thế cạnh tranh với nhau[4];

- Trái với với tập quán trung thực, thiện chí;

- Đã và sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây tổn hại cho đối thủ cạnh tranh, thông qua đó tìm cách tạo cho mình những mối lợi hoặc thế mạnh bất chính.

- Gây tổn hại đến lợi ích người tiêu dùng, ảnh hưởng xấu đến hoạt động hoạt động thương mại.

Như vậy, so sánh với quy định trong pháp luật của một số quốc gia khác trên thế giới có thể thấy, khái niệm về hành vi CTKLM trong Luật Cạnh tranh năm 2004 của Việt Nam vẫn tương thích. Do đó, điều cần sửa đổi, bổ sung là danh mục các các loại hành vi CTKLM quy định tại Điều 39 cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại.

ThS. Nguyễn Phương Thảo

Trường Đại học Thành Tây


[1] Jean- Jacques Burst (1993). Concurrence déloyale et parasitisme. Dalloz, Pháp, pp. 9; Yves Chaput (1988). Le droit de la concurrence. PUF, Pháp, pp.71.

[2] Stéphane Rials (1980). Le juge administratif francais et la technique du standard, essai sur le traitement juridictionnel de l’idée de normalité, thèse, LGDJ, Paris, p.3.

[3] Hồ Xuân Thắng (2015), Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam. Đề tài NCKH cấp trường, Đại học Sài Gòn, TP. HCM, tháng 8/2015, tr. 29.

[4] “Phân biệt giữa CTKLM và vi phạm quyền SHTT”, 09/12/2008, http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2008/12/09/2069/.

In bài viết Gửi phản hồi

Các tin khác

Bất cập trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Bộ luật Tố tụng dân sự Vướng mắc cần tháo gỡ để nâng cao hoạt động tranh tụng của luật sư tại phiên toà hình sự Hoàn thiện thẩm quyền của hội đồng giám đốc thẩm theo tinh thần cải cách tư pháp Bàn về thẩm quyền đề nghị miễn thi hành án khoản tiền phạt theo Bộ luật Hình sự Những vướng mắc trong phối hợp thực hiện quy định về “cưỡng chế trả giấy tờ” Sự cần thiết và quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật Báo cáo thống kê thi hành án dân sự - Một số vấn đề từ thực tiễn Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về phiên tòa giám đốc thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Giải trừ trách nhiệm của công chức thuế, tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp

Luật số 56/2024/QH15 bổ sung quy định về trách nhiệm của công chức thuế theo hướng giải trừ trách nhiệm cho công chức thuế khi có gian lận trong kê khai, cung cấp thông tin tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp chân chính.

Cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng

Hải Phòng là địa phương luôn nỗ lực, tích cực thực hiện cải cách thủ tục hành chính, với mục tiêu tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, trong đó phải kể đến lĩnh vực cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Điều này được thể hiện rõ nét qua sự quyết tâm, chủ động, sáng tạo trong triển khai, thực hiện các văn bản, quy định nhằm cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân trong bối cảnh chuyển đổi số và những khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết bàn về những vấn đề cơ bản của quyền riêng tư và sự cần thiết phải bảo vệ quyền riêng tư; phân tích các vấn đề pháp lý về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân theo pháp luật quốc tế, từ đó đúc kết và đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này tại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số.

Bảo đảm quyền văn hóa của người dân tộc thiểu số trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết nghiên cứu về những vấn đề đặt ra đối với việc bảo đảm quyền văn hóa của người dân tộc thiếu số ở nước ta hiện nay trong bối cảnh chuyển đổi số.

Xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới

Bài viết đề cập đến vấn đề xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp trong sạch, vững mạnh, liêm chính, chuyên nghiệp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nâng cao hiệu quả công tác xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân ở các cơ sở giam giữ

Nâng cao hiệu quả công tác xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân ở các cơ sở giam giữ

Thi đua chấp hành án phạt tù tại các cơ sở giam giữ là một trong những yêu cầu phạm nhân phải thực hiện theo quy định của pháp luật. Kết quả của việc thi đua chấp hành án phạt tù là cơ sở để thực hiện các chính sách của Nhà nước đối với phạm nhân theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2019. Công tác xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân thuộc về cơ sở giam giữ phạm nhân theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành cho thấy một số khó khăn, vướng mắc cần có giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian tới.
Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum đẩy mạnh hoạt động xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp

Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum đẩy mạnh hoạt động xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp

Nhận thức rõ tầm quan trọng của dữ liệu lý lịch tư pháp trong tiến trình xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số, công dân số, phục vụ tốt nhất cho người dân và doanh nghiệp thông qua việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua môi trường điện tử theo tinh thần của Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án số 06/CP của Chính phủ), được sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh, Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum đã ban hành và tổ chức thực hiện Kế hoạch số 64/KH-STP ngày 18/7/2024 về cao điểm nhập dữ liệu thông tin lý lịch tư pháp vào Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp dùng chung của Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum.

Công tác tư pháp 06 tháng cuối năm 2024: Tập trung hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành Tư pháp

Trong 06 tháng đầu năm 2024, Bộ, Ngành Tư pháp đã bám sát sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, sự điều hành của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, đoàn kết, trách nhiệm, tập trung triển khai toàn diện, kịp thời các nhiệm vụ được giao đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội của đất nước. Theo đó, để hoàn thành tốt kế hoạch công tác năm 2024, Bộ, Ngành Tư pháp đã đề ra những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của 06 tháng cuối năm, trong đó xác định tiếp tục đổi mới, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; tiếp tục đầu tư nguồn lực, cơ sở hạ tầng để đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong Ngành Tư pháp... góp phần vào công cuộc phát triển đất nước trong tình hình mới.
Một số ý kiến góp ý đối với Đề cương chi tiết Luật Luật sư thay thế Luật Luật sư năm 2006

Một số ý kiến góp ý đối với Đề cương chi tiết Luật Luật sư thay thế Luật Luật sư năm 2006

Một trong các nhiệm vụ và giải pháp được xác định trong Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) đã xác định: “Hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư, bảo đảm để luật sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật...”.
Hoạt động đấu giá tài sản tiếp tục được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa một cách mạnh mẽ

Hoạt động đấu giá tài sản tiếp tục được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa một cách mạnh mẽ

Ngày 27/6/2024, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản nhằm góp phần phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; tiếp tục nâng cao tính chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa của đội ngũ đấu giá viên, tổ chức đấu giá tài sản; khắc phục những hạn chế, bất cập, bảo đảm tính công khai, minh bạch, khách quan, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động đấu giá tài sản; nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý nhà nước về đấu giá tài sản. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2025.
Nỗ lực số hóa dữ liệu hộ tịch - Phấn đấu đẩy nhanh tiến độ, “về đích” sớm*

Nỗ lực số hóa dữ liệu hộ tịch - Phấn đấu đẩy nhanh tiến độ, “về đích” sớm*

Số hóa dữ liệu hộ tịch được xác định là một trong các nhiệm vụ trọng tâm của Ngành Tư pháp năm 2024. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, các cơ quan đăng ký hộ tịch trên cả nước đang lưu trữ trên 08 triệu sổ đăng ký hộ tịch các loại, tương ứng với hơn 100 triệu dữ liệu hộ tịch, việc hoàn thành số hóa các dữ liệu hộ tịch vừa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ - xác định năm 2024 là năm số hóa dữ liệu, vừa bảo đảm cung cấp thông tin đầu vào, chia sẻ, đồng bộ dữ liệu dân cư, thúc đẩy việc triển khai Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 ban hành kèm theo Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ (Đề án 06).
Tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng trong thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở tại tỉnh Quảng Trị

Tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng trong thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở tại tỉnh Quảng Trị

Tổ chức, triển khai thực hiện đưa Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở vào cuộc sống là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng hiện nay góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng gắn với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng”.

Đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp

Bài viết này khái quát về đơn giản hóa thủ tục hành chính và phân tích thực trạng về thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp, từ đó, đưa ra một số đề xuất cắt giảm, đơn giản hóa các quy định, thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp trong thời gian tới.
Cấp phiếu lý lịch tư pháp qua ứng dụng VNeID tại Thành phố Hà Nội và tỉnh Thừa Thiên Huế - Kết quả bước đầu và vấn đề cần hoàn thiện

Cấp phiếu lý lịch tư pháp qua ứng dụng VNeID tại Thành phố Hà Nội và tỉnh Thừa Thiên Huế - Kết quả bước đầu và vấn đề cần hoàn thiện

Bài viết nêu lên những kết quả bước đầu của công tác thí điểm cấp Phiếu lý lịch tư pháp trên ứng dụng VNeID tại Thành phố Hà Nội và tỉnh Thừa Thiên Huế; từ đó, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cấp Phiếu lý lịch tư pháp trên ứng dụng VNeID trong thời gian tới.
Dấu ấn vị Bộ trưởng qua gần 8 năm “dẫn dắt” ngành Tư pháp

Dấu ấn vị Bộ trưởng qua gần 8 năm “dẫn dắt” ngành Tư pháp

Gần 8 năm trên cương vị Bộ trưởng Tư pháp, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự đảng, Bộ trưởng Lê Thành Long luôn là vị Bộ trưởng của hành động, nắm chắc lý luận, sâu sát thực tiễn, truyền lửa đam mê tới mỗi công chức, viên chức, người lao động trong toàn Ngành.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm