Thứ ba 03/06/2025 23:01
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân

Luật Đất đai năm 2024 ra đời đã thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các quan điểm, chủ trương tại các nghị quyết, kết luận của Đảng về quản lý và sử dụng đất. Trong đó có nội dung về nâng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân và phân cấp thẩm quyền quy định cho địa phương.

Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao đã xác định: “Mở rộng đối tượng, hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng vùng, địa phương, với việc chuyển đổi nghề, việc làm, lao động ở nông thôn. Tạo điều kiện thuận lợi để người sử dụng đất nông nghiệp được chuyển đổi mục đích sản xuất cây trồng, vật nuôi, nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo quy hoạch. Tăng cường quản lý chất lượng đất, khắc phục tình trạng thoái hóa, suy giảm chất lượng đất”. Dựa trên tinh thần này, hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp được quy định trong Luật Đất đai năm 2024 đã có những sửa đổi, bổ sung phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cụ thể:

Thứ nhất, hộ gia đình không còn thuộc đối tượng được áp dụng quy định về hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp

So với Luật Đất đai năm 2013, Luật đất đai năm 2024 đã có sự thay đổi về đối tượng được áp dụng quy định. Theo đó, hộ gia đình được hiểu là “những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung” sẽ không thuộc đối tượng được áp dụng quy định hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp. Đối tượng được áp dụng quy định này chỉ có cá nhân. Điều này có thể xuất phát từ việc Luật Đất đai năm 2024 đã sửa đổi quy định về người sử dụng đất, cụ thể: Điều 4 quy định người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; đang sử dụng đất ổn định, đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất mà chưa được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất; nhận quyền sử dụng đất; thuê lại đất theo quy định của Luật này, bao gồm: (i) Tổ chức trong nước; (ii) Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc; (iii) Cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam; (iv) Cộng đồng dân cư; (v) Tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao gồm cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện khác của nước ngoài có chức năng ngoại giao được Chính phủ Việt Nam thừa nhận; cơ quan đại diện của tổ chức thuộc Liên hợp quốc, cơ quan hoặc tổ chức liên chính phủ, cơ quan đại diện của tổ chức liên chính phủ; (vi) Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài; (vii) Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, có thể thấy, hộ gia đình không còn là người sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 2024, đồng nghĩa với việc hộ gia đình sẽ không được nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp.

Thứ hai, về tăng hạn mức và bổ sung căn cứ xác định hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân:

Luật Đất đai năm 2024 đã tăng hạn mức và bổ sung căn cứ xác định hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân. Cụ thể:

Theo khoản 1 Điều 177 Luật Đất đai năm 2024, hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân đối với mỗi loại đất đã được mở rộng thành không quá 15 lần hạn mức giao đất nông nghiệp của cá nhân đối với mỗi loại đất thay vì không quá 10 lần như Luật Đất đai năm 2013. Trong đó, hạn mức giao đất nông nghiệp của cá nhân đối với mỗi loại đất được quy định như sau:

- Đối với đất trồng cây hằng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối cho cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp: Không quá 45 ha cho mỗi loại đất đối với tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc khu vực Đông Nam Bộ và khu vực đồng bằng sông Cửu Long; không quá 30 ha cho mỗi loại đất đối với tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác.

- Đối với đất trồng cây lâu năm: Không quá 150 ha đối với xã, phường, thị trấn ở đồng bằng; không quá 450 ha đối với xã, phường, thị trấn ở trung du, miền núi.

- Đối với đất rừng phòng hộ; đất rừng sản xuất là rừng trồng thì không quá 450 ha đối với mỗi loại đất.

Với quy định này, Luật Đất đai năm 2024 được kỳ vọng sẽ tạo điều kiện sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả hơn, góp phần phát triển Ngành Nông nghiệp nhanh, bền vững, hiệu quả, thu hút nguồn lực đầu tư vào nông nghiệp, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, đồng thời sẽ có tác động tích cực đến cả nền kinh tế và thị trường bất động sản trong quá trình đô thị hóa và phát triển các khu dân cư nông thôn.

Bên cạnh đó, một trong những điểm mới đã được bổ sung trong Luật Đất đai năm 2024 về quy định hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân là căn cứ xác định hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất. Theo đó, việc xác định hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp này phải căn cứ vào 02 yếu tố sau: (i) Điều kiện về đất đai và công nghệ sản xuất; (ii) Chuyển dịch lực lượng lao động, cơ cấu kinh tế; quá trình đô thị hóa.

Thứ ba, về thẩm quyền quy định hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân:

Khoản 3 Điều 177 Luật Đất đai năm 2024 quy định: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, căn cứ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, quy định hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương”. Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, thẩm quyền này thuộc về Chính phủ. Tuy nhiên, Luật Đất đai năm 2024 đã có sự sửa đổi theo hướng thể hiện rõ vai trò của chính quyền địa phương trong việc quản lý phần diện tích đất nông nghiệp nằm trong địa giới hành chính của cấp mình bằng việc quy định cụ thể việc phân cấp thẩm quyền cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân. Mặt khác, quy định này cũng thể hiện sự linh hoạt, tạo sự chủ động hơn cho chính quyền địa phương trong việc quy định hạn mức đối với từng địa phương cụ thể. Theo đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể điều chỉnh một hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân thấp hơn để phù hợp với tình hình của địa phương mình./.

Thùy Dung

Ảnh: internet

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vướng mắc của thị trường bất động sản hiện nay nhìn từ góc độ pháp lý

Vướng mắc của thị trường bất động sản hiện nay nhìn từ góc độ pháp lý

Bài viết nhận diện những vướng mắc của thị trường bất động sản Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ pháp lý đặt trong bối cảnh Luật Nhà ở năm 2023, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2023, Luật Đất đai năm 2024 được ban hành, có hiệu lực từ ngày 01/8/2024, từ đó, kiến nghị khắc phục những vướng mắc này để thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển thông suốt, công khai, minh bạch, lành mạnh.
Thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng theo Luật Đất đai năm 2024 - Nhiều chính sách có lợi cho người dân

Thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng theo Luật Đất đai năm 2024 - Nhiều chính sách có lợi cho người dân

Đối với thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, quy định của Luật Đất đai năm 2024 có nhiều chính sách tạo thuận lợi cho công tác thu hồi cũng như bảo đảm tốt hơn lợi ích cho người dân.
Tăng cơ hội được cấp sổ đỏ đối với đất không có giấy tờ sử dụng trước ngày 01/7/2014

Tăng cơ hội được cấp sổ đỏ đối với đất không có giấy tờ sử dụng trước ngày 01/7/2014

Luật Đất đai năm 2024 là một bộ luật quan trọng, có tác động sâu rộng đến nhiều ngành, lĩnh vực và quyền lợi của người dân và doanh nghiệp. Luật có hiệu lực và đi vào cuộc sống từ ngày 01/8/2024, trong đó, quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với trường hợp hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có giấy tờ từ trước tháng 7/2014 tại Điều 138 được người dân quan tâm.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng, trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định bảng giá đất lần đầu để công bố và áp dụng từ ngày 01/01/2026

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng, trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định bảng giá đất lần đầu để công bố và áp dụng từ ngày 01/01/2026

Luật Đất đai số 31/2024/QH15 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV, kỳ họp bất thường lần thứ năm thông qua ngày 18/01/2024 (Luật Đất đai năm 2024). Luật Đất đai năm 2024 gồm 16 chương với 260 điều luật, tăng 02 chương so với Luật Đất đai năm 2013. So với Luật Đất đai năm 2013, Luật Đất đai năm 2024 có nhiều điểm mới, mang tính đột phá, giải quyết tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn trong các chính sách, pháp luật có liên quan đến đất đai. Một trong những điểm mới quan trọng của Luật Đất đai năm 2024 là bỏ khung giá đất, thay vào đó là áp dụng bảng giá đất.
Thực tiễn thu thập chứng cứ của Tòa án khi giải quyết tranh chấp  về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Thực tiễn thu thập chứng cứ của Tòa án khi giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Trong quá trình giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Tòa án ra phán quyết phần lớn dựa trên việc đánh giá những tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp và giao nộp cho Tòa án để giải quyết vụ án. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết tranh chấp cho thấy, để có những bản án phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án, Tòa án vẫn phải tiến hành thu thập chứng cứ nhằm làm rõ những vấn đề cần chứng minh của vụ án mà từ phía các đương sự không thể cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ tài liệu, chứng từ. Bài viết phân tích, luận giải thực tiễn thu thập chứng cứ của Tòa án khi giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Chính sách mới có hiệu lực từ tháng 8/2024

Chính sách mới có hiệu lực từ tháng 8/2024

Một số Nghị định mới của Chính phủ quy định về đất đai, nhà ở và thị trường bất động sản... sẽ có hiệu lực từ tháng 8/2024.
Luật Đất đai năm 2024: Một số điểm mới và đề xuất hoàn thiện văn bản hướng dẫn thi hành

Luật Đất đai năm 2024: Một số điểm mới và đề xuất hoàn thiện văn bản hướng dẫn thi hành

Bài viết tập trung phân tích, đánh giá một số nội dung được sửa đổi, bổ sung, quy định mới trong Luật Đất đai năm 2024. Qua đó, đề xuất hoàn thiện văn bản hướng dẫn thi hành nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện Luật Đất đai năm 2024 trong thời gian tới.
Một số điểm mới của Luật Đất đai năm 2024 và việc xây dựng, hoàn thiện văn bản dưới luật, nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành luật *

Một số điểm mới của Luật Đất đai năm 2024 và việc xây dựng, hoàn thiện văn bản dưới luật, nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành luật *

Luật Đất đai năm 2024 được Quốc hội thông qua ngày 18/01/2024 có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Trong phạm vi bài viết, tác giả tập trung vào 03 điểm mới của Luật Đất đai năm 2024 trực tiếp liên quan đến Bộ, Ngành Tư pháp: (i) Người sử dụng đất; (ii) Tài sản và thế chấp quyền sử dụng đất; (iii) Chế độ sử dụng đất đối với đất xây dựng công trình ngầm. Từ đó, đề xuất một số vấn đề cần tiếp tục được cụ thể hóa đúng và đầy đủ trong các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành cũng như để nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành trong thực tiễn.
Điều 190, Điều 248 Luật Đất đai năm 2024 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2024 và dự kiến trình Quốc hội cho phép Luật Đất đai năm 2024 có hiệu lực từ ngày 01/7/2024

Điều 190, Điều 248 Luật Đất đai năm 2024 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2024 và dự kiến trình Quốc hội cho phép Luật Đất đai năm 2024 có hiệu lực từ ngày 01/7/2024

Luật Đất đai năm 2024 được Quốc hội thông qua tại kỳ họp bất thường lần thứ 5 gồm có 16 chương, 260 điều, có hiệu lực từ ngày 01/01/2025. Trong đó, Điều 190 (hoạt động lấn biển) và Điều 248 (sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Lâm nghiệp số 16/2017/QH14 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 16/2023/QH15) có hiệu lực kể từ ngày 01/4/2024. Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã có ý kiến chỉ đạo về việc trình Quốc hội cho phép Luật Đất đai năm 2024 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2024.
Ngành Tư pháp phổ biến, quán triệt, triển khai Luật Đất đai năm 2024

Ngành Tư pháp phổ biến, quán triệt, triển khai Luật Đất đai năm 2024

Ngày 22/3, Bộ Tư pháp tổ chức Hội nghị Phổ biến, quán triệt, triển khai Luật Đất đai năm 2024 với hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến tại điểm cầu 63 tỉnh, thành phố. Đồng chí Lê Thành Long, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp chủ trì Hội nghị. Các Thứ trưởng Bộ Tư pháp: Nguyễn Khánh Ngọc, Đặng Hoàng Oanh, Trần Tiến Dũng và Mai Lương Khôi cùng dự.
Triển khai thi hành trách nhiệm của Nhà nước về đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số theo Luật Đất đai năm 2024

Triển khai thi hành trách nhiệm của Nhà nước về đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số theo Luật Đất đai năm 2024

Bài viết phân tích những sửa đổi, bổ sung trách nhiệm của Nhà nước về đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số trong Luật Đất đai năm 2024, trên cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp nhằm nhanh chóng triển khai thực hiện những quy định này trong cuộc sống.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm