
Sau 17 năm triển khai thi hành, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật Quốc tịch) đã thể chế hóa các định hướng, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; cơ bản đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về quốc tịch. Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới, một số quy định hiện hành liên quan đến thủ tục nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam chưa thực sự tạo điều kiện cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài được có quốc tịch Việt Nam mà vẫn giữ quốc tịch nước ngoài; chưa thu hút được nhiều nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Bên cạnh đó, trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhất là sự hội nhập mạnh mẽ, sâu rộng trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội… các quốc gia trên thế giới đều có xu hướng mở rộng và linh hoạt hơn trong chính sách quốc tịch.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Quốc tịch Việt Nam đã tiếp tục thể chế hóa chủ trương của Đảng nhằm giải quyết nhu cầu chính đáng của người Việt Nam ở nước ngoài liên quan đến quốc tịch; kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong các quy định của Luật Quốc tịch; thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, các doanh nhân, nhà đầu tư nước ngoài… đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới; đáp ứng yêu cầu đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư.
So với Luật Quốc tịch, dự thảo Luật có một số quy định mới, là cơ sở pháp lý quan trọng để xem xét, quyết định cho phép người Việt Nam ở nước ngoài được nhập quốc tịch, trở lại quốc tịch Việt Nam, được hưởng các quyền của công dân Việt Nam.
Người chưa thành niên có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam thì không cần đáp ứng điều kiện “có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”
Khoản 1 Điều 19 Luật Quốc tịch quy định công dân nước ngoài và người không quốc tịch đang thường trú ở Việt Nam có đơn xin nhập quốc tịch Việt Nam thì có thể được nhập quốc tịch Việt Nam, nếu có đủ các điều kiện sau đây: (i) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam; (ii) tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; tôn trọng truyền thống, phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam; (iii) Biết tiếng Việt đủ để hoà nhập vào cộng đồng Việt Nam; (iv) Đã thường trú ở Việt Nam từ 5 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập quốc tịch Việt Nam; (v) Có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Quốc tịch Việt Nam sửa đổi quy định về điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các trường hợp có cha hoặc mẹ hoặc ông bà nội hoặc ông bà ngoại là công dân Việt Nam; nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài… được nhập quốc tịch Việt Nam tại khoản 1 Điều 19 theo hướng đối với người chưa thành niên có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam thì không cần đáp ứng điều kiện “có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”; sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 19 theo hướng người xin nhập quốc tịch Việt Nam nếu có cha hoặc mẹ hoặc ông bà nội hoặc ông bà ngoại là công dân Việt Nam; có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì được miễn các điều kiện quy định tại điểm c, d, đ, e khoản 1 Điều 19 Luật Quốc tịch (biết tiếng Việt đủ để hoà nhập vào cộng đồng Việt Nam; đang thường trú ở Việt Nam; thời gian thường trú ở Việt Nam từ 05 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập quốc tịch Việt Nam; có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam). Theo đó các trường hợp này được phép nộp hồ sơ tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài mà không cần phải về nước thường trú.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật bỏ quy định về trường hợp đặc biệt được nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài và giao Chính phủ quy định điều kiện cụ thể. Theo đó, các trường hợp xin nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài nêu tại khoản 2, khoản 2a Điều 19 Luật Quốc tịch chỉ cần đáp ứng hai điều kiện: (i) Việc xin giữ quốc tịch nước ngoài của người đó khi nhập quốc tịch Việt Nam là phù hợp với pháp luật của nước ngoài đó; (ii) Không sử dụng quốc tịch nước ngoài để gây phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân; xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tất cả các trường hợp đã mất quốc tịch Việt Nam có đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam thì có thể được xét trở lại quốc tịch Việt Nam
Dự thảo Luật đã sửa đổi quy định tại khoản 1 Điều 23 theo hướng bỏ quy định về các trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam tại các điểm a, b, c, d, đ và e khoản 1 Điều 23 Luật Quốc tịch (xin hồi hương về Việt Nam; có vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ là công dân Việt Nam; có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam; có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; thực hiện đầu tư tại Việt Nam; đã thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài, nhưng không được nhập quốc tịch nước ngoài). Như vậy, tất cả các trường hợp đã mất quốc tịch Việt Nam có đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam thì có thể được xét trở lại quốc tịch Việt Nam. Theo đó, tên của điều này được sửa đổi thành “Điều kiện được trở lại quốc tịch Việt Nam” bảo đảm phù hợp với nội dung.
Dự thảo Luật cũng sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 23 theo hướng bỏ quy định “Người được trở lại quốc tịch Việt Nam phải thôi quốc tịch nước ngoài” và trường hợp đặc biệt được giữ quốc tịch nước ngoài. Theo đó, giao Chính phủ quy định các trường hợp xin trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài chỉ cần đáp ứng hai điều kiện: (i) Việc xin giữ quốc tịch nước ngoài của người đó khi trở lại quốc tịch Việt Nam là phù hợp với pháp luật của nước ngoài đó; (ii) Không sử dụng quốc tịch nước ngoài để gây phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân; xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Người ứng cử, tuyển dụng vào các chức danh, làm việc trong tổ chức bộ máy Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, tham gia lực lượng vũ trang của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải thôi quốc tịch nước ngoài và phải thường trú tại Việt Nam
Vì “nới lỏng” quy định cho nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài nên dự thảo Luật bổ sung quy định: “Công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài khi thực hiện các quyền ứng cử, tuyển dụng vào các chức danh, làm việc trong tổ chức bộ máy Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, tham gia lực lượng vũ trang của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải thôi quốc tịch nước ngoài và phải thường trú tại Việt Nam. Trường hợp pháp luật có liên quan khác với quy định này thì áp dụng quy định tại Luật này” tại Điều 5 Luật Quốc tịch Việt Nam (Quan hệ giữa nhà nước và công dân) nhằm bảo đảm chủ quyền, an ninh chính trị, lợi ích quốc gia cũng như tính trung thành và trách nhiệm của công dân đối với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc quy định nguyên tắc áp dụng nêu trên bảo đảm phù hợp với quy định tại khoản 6 Điều 58 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025.
Dự thảo Luật cũng bổ sung quy định thẩm quyền cho cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài tiếp nhận hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam đối với các trường hợp người xin nhập quốc tịch Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài có cha hoặc mẹ hoặc ông bà nội hoặc ông bà ngoại là công dân Việt Nam; có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: "Người xin nhập quốc tịch Việt Nam nộp hồ sơ cho Sở Tư pháp nếu cư trú ở trong nước, cho cơ quan đại diện Việt Nam ở nước sở tại nếu cư trú ở nước ngoài đối với các trường hợp quy định tại khoản 2a Điều 19 của Luật này" (khoản 5 Điều 2 dự thảo Luật).
Đồng thời, dự thảo Luật sửa đổi quy định liên quan đến vấn đề xác minh nhân thân trong hồ sơ xin nhập/xin trở lại quốc tịch Việt Nam. Theo đó, Bộ Tư pháp đề nghị Bộ Công an xác minh nhân thân đối với tất cả các hồ sơ xin nhập/xin trở lại quốc tịch Việt Nam được tiếp nhận tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài bảo đảm vấn đề an ninh chính trị. Do thủ tục nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam cho phép người yêu cầu cam đoan về một số điều kiện để được giữ quốc tịch nước ngoài trong trường hợp pháp luật nước ngoài không quy định việc cấp giấy tờ để xác nhận về những nội dung này, vì vậy cần có quy định về chế tài xử lý giấy tờ được cấp trong trường hợp người yêu cầu cam đoan không đúng sự thật. Cụ thể: Bổ sung việc hủy bỏ quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam trong trường hợp người xin trở lại quốc tịch Việt Nam có hành vi cam đoan không đúng sự thật, bỏ quy định thời hiệu 05 năm hủy bỏ quyết định cho nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam tại Điều 33; bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, Tòa án trong việc lập hồ sơ kiến nghị hủy bỏ quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam tại Điều 34; bổ sung quy định “Bị hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam” vào căn cứ mất quốc tịch Việt Nam tại Điều 26 của Luật.
Đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân
Dự thảo Luật bổ sung “Căn cước công dân, Thẻ Căn cước, Căn cước điện tử” là giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam, bảo đảm phù hợp với Luật Căn cước năm 2023; đồng thời bổ sung quy định “Các giấy tờ khác do Chính phủ quy định” để bảo đảm tính linh hoạt khi quy định về các loại giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam (trên thực tế Nghị định số 16/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam cũng đã quy định thủ tục xác định có quốc tịch Việt Nam tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và cấp Giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam tại Sở Tư pháp…).
Vì quy định việc xác minh nhân thân đối với tất cả các trường hợp xin nhập/xin trở lại quốc tịch Việt Nam; xin thôi quốc tịch Việt Nam (trừ một số trường hợp miễn xác minh về nhân thân tại Điều 30 Luật Quốc tịch Việt Nam), nên dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung theo hướng bỏ Phiếu lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp trong thành phần hồ sơ xin nhập/xin trở lại/xin thôi quốc tịch Việt Nam. Riêng đối Phiếu lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp trong thời gian cư trú ở nước ngoài, người yêu cầu vẫn phải nộp trong hồ sơ xin nhập/xin trở lại quốc tịch Việt Nam để chứng minh có nhân thân tốt, đáp ứng điều kiện không làm phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam quy định tại Điều 19 và Điều 23 Luật Quốc tịch. Đồng thời đổi tên “Phiếu lý lịch tư pháp” thành “Giấy tờ chứng minh thông tin lý lịch tư pháp do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cấp phù hợp với pháp luật của nước đó” bảo đảm tính linh hoạt, tạo thuận lợi cho người yêu cầu.
Liên quan đến trình tự giải quyết hồ sơ xin nhập/xin trở lại/xin thôi quốc tịch Việt Nam, dự thảo Luật sửa đổi bổ sung theo hướng cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài sẽ có trách nhiệm thẩm tra và chuyển hồ sơ kèm theo ý kiến đề xuất việc giải quyết hồ sơ xin nhập/xin trở lại/xin thôi quốc tịch Việt Nam về Bộ Tư pháp (không qua Bộ Ngoại giao) để bảo đảm cắt giảm quy trình giải quyết thủ tục hành chính.
Dự thảo Luật cũng bổ sung quy định “Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan có liên quan thực hiện rà soát các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành có nội dung liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài” làm cơ sở để đề xuất, sửa đổi bổ sung các quy định nhằm bảo đảm việc “nới lỏng” chính sách cho nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài vừa tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài vừa bảo vệ chủ quyền, an ninh chính trị quốc gia.
Quy định đối với hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam, xin trở lại quốc tịch Việt Nam, xin thôi quốc tịch Việt Nam tiếp nhận trước thời điểm Luật này có hiệu lực thì được giải quyết theo quy định của Luật này nhằm bảo đảm quyền lợi cho các trường hợp có yêu cầu, phù hợp với quy định tại Điều 55 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 về hiệu lực trở về trước của văn bản quy phạm pháp luật.
Những sửa đổi, bổ sung này để thể chế hóa kịp thời, đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng về công tác người Việt Nam ở nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài về nước đầu tư, sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số… Qua đó, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.