Thứ sáu 20/06/2025 09:00
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Pháp luật tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự - Một số đề xuất, kiến nghị

Việc thực hiện tương trợ tư pháp (TTTP) về dân sự được thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế về TTTP mà Việt Nam là thành viên. Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 được Quốc hội ban hành tại kỳ họp thứ 2,

Việc thực hiện tương trợ tư pháp (TTTP) về dân sự được thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế về TTTP mà Việt Nam là thành viên. Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 được Quốc hội ban hành tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XII. Sau gần 10 năm thực hiện, pháp luật về TTTP trong lĩnh vực dân sự tiếp tục được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu hội nhập toàn cầu và khu vực, nhất là trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Công ước năm 1965 về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại (Công ước Tống đạt). Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này gồm Nghị định số 92/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Tương trợ tư pháp, Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 19/10/2016 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao quy định về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự (Thông tư liên tịch số 12)[1]. Bài viết này sẽ tập trung đánh giá những bước phát triển mới, đồng thời phân tích những điểm còn vướng mắc về pháp luật TTTP trong lĩnh vực dân sự, từ đó, đưa ra một số đề xuất góp phần tiếp tục hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới.

1. Pháp luật Việt Nam về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự

1.1. Tiếp nhận và chuyển yêu cầu tương trợ tư pháp

a. Về việc gửi hồ sơ ủy thác tư pháp về dân sự ra nước ngoài

Cơ quan có thẩm quyền[2] của Việt Nam trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thực hiện TTTP tại Điều 13 Luật Tương trợ tư pháp năm 2007. Theo đó, trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền, Bộ Tư pháp nếu thấy hồ sơ đã đầy đủ và hợp lệ[3] sẽ có văn bản chuyển các yêu cầu này đến Bộ Ngoại giao (trường hợp yêu cầu được gửi đến các nước chưa có hiệp định TTTP với Việt Nam) hoặc cơ quan trung ương hay cơ quan khác được chỉ định (trong trường hợp yêu cầu được gửi đến các nước đã có điều ước quốc tế về TTTP với Việt Nam).

Đối với các yêu cầu gửi đến các nước chưa có hiệp định với Việt Nam, Bộ Ngoại giao có trách nhiệm chuyển hồ sơ cho cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ ủy thác tư pháp do Bộ Tư pháp chuyển đến. Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm chuyển hồ sơ ủy thác tư pháp cho cơ quan có thẩm quyền nước ngoài trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ ủy thác tư pháp.

Khi nhận được phản hồi từ phía cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, các phản hồi đó sẽ được chuyển ngược lại cho cơ quan có thẩm quyền trong nước theo quy trình ngược lại trên đây.

b. Về việc thực hiện yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài

Yêu cầu TTTP từ phía cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài được tiếp nhận qua 02 kênh là Bộ Ngoại giao (từ các nước chưa có điều ước quốc tế về TTTP với Việt Nam) hoặc trực tiếp từ Bộ Tư pháp (từ các nước có điều ước quốc tế về TTTP với Việt Nam).

Khi nhận được yêu cầu từ nước ngoài, trong thời hạn 05 ngày, Bộ Ngoại giao sẽ chuyển yêu cầu cho Bộ Tư pháp để thực hiện. Bộ Tư pháp sau khi nhận được hồ sơ của Bộ Ngoại giao (hoặc các yêu cầu tự mình tiếp nhận), trong thời hạn 10 ngày làm việc sẽ xem xét và chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam để thực hiện[4]. Pháp luật cũng quy định chặt chẽ thời hạn để ràng buộc trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền thực hiện yêu cầu của phía nước ngoài[5].

Việc chuyển trả kết quả thực hiện từ cơ quan có thẩm quyền trong nước cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài được thực hiện theo quy trình ngược lại.

Mặc dù quy định một quy trình chặt chẽ như trên nhưng thực tế, đa số các yêu cầu không đảm bảo về mặt thời gian và cơ quan có thẩm quyền trong nước cũng chưa thực sự nghiêm túc thực hiện, dẫn đến giảm hiệu quả công tác TTTP và ảnh hưởng đến hình ảnh của Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết quốc tế. Chẳng hạn, tổng hợp số liệu thống kê các yêu cầu TTTP với Đài Loan cho thấy, phía Việt Nam thực hiện cho Đài Loan đạt xấp xỉ 60% tỷ lệ có kết quả, trong khi phía Đài Loan thực hiện có kết quả cho Việt Nam đạt khoảng 90%.

Báo cáo công tác TTTP trong những năm gần đây đã chỉ ra nhiều nguyên nhân của thực trạng này. Trước hết, đó là sự đầu tư, quan tâm và nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của TTTP ở các bộ, ngành và địa phương còn chưa đồng đều. Đội ngũ cán bộ làm công tác TTTP còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Trình độ của một bộ phận cán bộ thực hiện hoạt động TTTP chưa đáp ứng yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng xử lý công việc, chưa nhận thức đầy đủ về yêu cầu, nhiệm vụ của hoạt động TTTP. Ngoài ra, việc bố trí cán bộ, kinh phí và các điều kiện cần thiết cho hoạt động này còn chưa tương xứng. Kể từ khi Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 được ban hành, số lượng đội ngũ cán bộ ở các cơ quan trung ương hầu như không được bổ sung, trong khi hoạt động TTTP ngày càng phức tạp về nội dung, gia tăng về khối lượng với yêu cầu ngày càng cao, cơ sở vật chất, kỹ thuật bố trí cho công tác TTTP vẫn chưa có sự phát triển theo kịp với yêu cầu phát triển của hoạt động này.

1.2. Nguyên tắc có đi có lại đã không “bó” các cơ quan có thẩm quyền trong nước

Trong trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế về TTTP trong cùng lĩnh vực thì việc thực hiện TTTP có thể được thực hiện dựa trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không được trái pháp luật Việt Nam và tập quán quốc tế.

Trước đây, Điều 4 Thông tư liên tịch số 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 15/9/2011 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự của Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 có quy định trình tự, thủ tục việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại. Tuy nhiên, quy định này khi đi vào thực tế lại vấp phải nhiều khó khăn, các Tòa án hầu như không nhận được trả lời chính thức về việc áp dụng nguyên tắc này dẫn đến ảnh hưởng công tác xét xử của Tòa án. Để khắc phục vướng mắc này, Thông tư liên tịch số 12 đã có những tháo gỡ nhất định, theo đó, cơ quan có thẩm quyền Việt Nam có thể từ chối thực hiện TTTP về dân sự cho nước ngoài trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại trong TTTP về dân sự giữa Việt Nam và nước ngoài theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Tương trợ tư pháp năm 2007. Thông tư liên tịch số 12 cũng quy định cụ thể thẩm quyền quyết định việc áp dụng có đi có lại.

1.3. Pháp luật tương trợ tư pháp đã tách được quy trình gửi hồ sơ tống đạt cho công dân Việt Nam ở nước ngoài ra khỏi quy trình tương trợ tư pháp về dân sự

Trước khi ban hành Thông tư liên tịch số 12, việc thực hiện tống đạt giấy tờ cho công dân Việt Nam ở nước ngoài được thực hiện như quy trình thực hiện ủy thác tư pháp đối với công dân nước ngoài ở nước sở tại và phải qua nhiều khâu trung gian. Quy trình này mất nhiều thời gian, làm ảnh hưởng đến hoạt động tố tụng trong nước. Trong khi đó, về bản chất, việc tống đạt cho công dân Việt Nam ở nước ngoài hoàn toàn do cơ quan có thẩm quyền Việt Nam thực hiện, không thông qua kênh TTTP của nước sở tại.

Hiện nay, quy trình này đã được cải thiện, theo đó, việc tống đạt văn bản tố tụng cho công dân Việt Nam ở nước ngoài sẽ do cơ quan có thẩm quyền trong nước gửi thẳng đến cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Văn bản quy định về trình tự, thủ tục, lập và gửi yêu cầu này sẽ do Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Ngoại giao hướng dẫn riêng.

1.4. Quy trình nộp chi phí cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đã được quy định rõ ràng

Pháp luật Việt Nam đã quy định rõ 02 nhóm chi phí thực tế bao gồm: Chi phí trong nước và chi phí tại nước ngoài. Chi phí trong nước như: Dịch thuật, công chứng, giám định thì đương sự tự thanh toán trực tiếp theo thực tế phát sinh. Chi phí tại nước ngoài là chi phí phát sinh theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài như: Phí thực hiện ủy thác tư pháp cho Việt Nam (theo quy định pháp luật của nước đó) và các chi phí phát sinh khác (khi thực hiện ủy thác tư pháp theo phương thức đặc biệt) thì tùy vào các trường hợp cụ thể.

Trường hợp chi phí thực tế đã xác định được theo quy định của phía nước ngoài tại thời điểm cơ quan có thẩm quyền yêu cầu ủy thác tư pháp của Việt Nam lập hồ sơ như: Hoa Kỳ (95 đô la Hoa Kỳ), Canada (100 đô la Canada)…, cơ quan có thẩm quyền yêu cầu ủy thác tư pháp của Việt Nam thông báo người có nghĩa vụ nộp chi phí thực hiện ủy thác tư pháp của Việt Nam thanh toán chi phí này với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc gia liên quan.

Trường hợp chi phí thực tế chưa xác định được tại thời điểm cơ quan có thẩm quyền yêu cầu ủy thác tư pháp của Việt Nam lập hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền yêu cầu ủy thác tư pháp của Việt Nam thông báo cho người có nghĩa vụ nộp chi phí thực hiện ủy thác tư pháp của Việt Nam phải nộp tạm ứng 03 triệu đồng tại cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nơi cơ quan có thẩm quyền ủy thác tư pháp về dân sự của Việt Nam có trụ sở. Số tiền tạm ứng này được thanh toán cho chi phí thực tế theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài và các chi phí phục vụ việc chuyển tiền ra nước ngoài do cơ quan thi hành án dân sự thực hiện.

Việc thu nộp các chi phí thực tế là một nội dung quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thực hiện ủy thác tư pháp. Do không có cơ chế đóng chi phí theo yêu cầu của phía nước ngoài nên nhiều hồ sơ ủy thác tư pháp của phía Việt Nam gửi đi không được thực hiện. Do đó, quy định này đã khắc phục được các khó khăn, vướng mắc trước đây khi chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về việc thu chi phí thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự.

Tuy nhiên, với quy định này, các cơ quan có thẩm quyền ở trong nước khi lập hồ sơ yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp cần nắm được thông tin về chi phí theo yêu cầu của nước đó, nhất là từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Công ước Tống đạt. Thông tin về chi phí của hơn 70 quốc gia là thành viên của Công ước được đăng tải trên trang thông tin của Hội nghị La Hay về Tư pháp quốc tế và bằng tiếng nước ngoài. Điều này tạo ta các khó khăn nhất định đối với các cơ quan lập hồ sơ. Thực tế, trong 6 tháng đầu năm 2017, tỷ lệ hồ sơ được Bộ Tư pháp gửi trả lại các cơ quan có thẩm quyền để hoàn thiện là 210/550 yêu cầu (chiếm 38%).

Bên cạnh đó, công tác theo dõi thi hành pháp luật mới được thực hiện một phần, chủ yếu tập trung vào công tác xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, tiến độ của hoạt động này cũng chưa đúng kế hoạch. Công tác báo cáo, kiểm điểm, đánh giá, rút kinh nghiệm còn chưa được các bộ, ngành đầu tư tương xứng với yêu cầu. Công tác tổ chức đoàn liên ngành kiểm tra việc thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự tại các Tòa án nhân dân và cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài, một trong những nhiệm vụ quản lý nhà nước về TTTP mới chỉ được triển khai bước đầu và chưa thường xuyên.

2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp

Để công tác TTTP tiếp tục được cải thiện và đáp ứng yêu cầu hội nhập cần tổng hợp nhiều biện pháp, bao gồm cả công tác quản lý nhà nước, xây dựng và hoàn thiện pháp luật, đàm phán ký kết các điều ước quốc tế, nâng cao nhận thức của các cơ quan có thẩm quyền trong công tác TTTP. Trong đó, trước mắt cần chú trọng thực hiện các giải pháp sau:

Một là, cần đơn giản hóa hơn nữa việc tiếp nhận và xử lý các yêu cầu TTTP của Việt Nam gửi ra nước ngoài, giúp giảm tải công việc cho các cán bộ làm công tác TTTP ở trung ương và địa phương trong bối cảnh biên chế không tăng. Để làm được việc này, một mặt, các cơ quan cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xử lý hồ sơ, có phần mềm khai thác và sử dụng tại mỗi cơ quan, sau đó mã số hóa và liên thông các phần mềm. Điều này giúp cắt giảm số lần cập nhật thông tin về hồ sơ, thuận tiện trong tra cứu và tiết kiệm cho ngân sách.

Hai là, đối với nguyên tắc có đi có lại, trong khi liên Bộ Tư pháp và Bộ Ngoại giao chưa thể cùng công khai thông tin làm căn cứ cho cơ quan có thẩm quyền quyết định việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại, Bộ Ngoại giao nên có hướng dẫn tạm thời. Theo đó, Bộ Ngoại giao có thể phối hợp với các cơ quan có liên quan, xây dựng văn bản hướng dẫn các cơ quan có thẩm quyền trong nước tự động áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong việc thực hiện và gửi các yêu cầu TTTP về dân sự, trừ khi Bộ Ngoại giao có thông báo khác. Giải pháp này làm cho cơ quan có thẩm quyền trong nước không phải lúng túng trong khi lập hồ sơ, đồng thời, tránh việc Bộ Ngoại giao thường xuyên phải trả lời các cơ quan đối với từng vụ việc về một vấn đề tương tự.

Ba là, đối với việc tiếp nhận và xử lý các yêu cầu tống đạt văn bản của nước ngoài, cần sớm ban hành quy định về cơ chế tống đạt thông qua thừa phát lại để giảm bớt gánh nặng cho cơ quan nhà nước. Như đã phân tích ở trên, hiện nay, nguồn nhân lực cho công tác TTTP ở cả trung ương và địa phương còn mỏng, yêu cầu TTTP kể từ khi gia nhập Công ước Tống đạt sẽ tiếp tục tăng (trong vòng 08 tháng, kể từ khi Công ước có hiệu lực, Bộ Tư pháp đã tiếp nhận khoảng 200 yêu cầu), trong khi đó, xu thế của các nước thường thực hiện thông qua đơn vị ngoài Nhà nước. Công ước cho phép việc thực hiện qua đơn vị ngoài Nhà nước được phép thu phí của nước ngoài. Do đó, việc Việt Nam cho phép tống đạt văn bản của nước ngoài thông qua thừa phát lại như tống đạt văn bản tố tụng trong nước như hiện nay sẽ làm giảm công việc cho cơ quan nhà nước, đồng thời, tăng nguồn thu cho các cơ quan thừa phát lại.

Bốn là, việc tuyên truyền, phổ biến các quy định về TTTP trong lĩnh vực dân sự nói chung và quy trình thực hiện theo quy định mới của Công ước Tống đạt và Thông tư liên tịch số 12 nói riêng cần được chú trọng và bảo đảm kinh phí. Theo các quy định này, cơ quan có thẩm quyền trong nước cần quan tâm nhiều vấn đề khi thực hiện lập và chuyển hồ sơ ra nước ngoài như: Thu chi phí, nộp tạm ứng, chuyển tiền ra nước ngoài, việc xác định ngôn ngữ, xác định địa chỉ của cơ quan tiếp nhận của nước ngoài... Đây là các vấn đề hoàn toàn mới, nếu chưa được hướng dẫn sẽ làm cho các cơ quan có thẩm quyền lập hồ sơ lúng túng và dễ sai sót trong thực hiện.

Năm là, liên ngành ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao cần sớm ban hành quy định về tống đạt văn bản cho công dân Việt Nam ở nước ngoài để hướng dẫn cơ quan có thẩm quyền trong nước thực hiện thống nhất.

ThS. Dương Thị Bích Đào

Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp

Tài liệu tham khảo:

[1]. Thay thế Thông tư liên tịch số 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 15/9/2011 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự của Luật Tương trợ tư pháp.

[2]. Là các cơ quan theo quy định tại Điều 10 Thông tư liên tịch số 12.

[3]. Hồ sơ không đầy đủ và hợp lệ theo quy định sẽ được trả lại cho cơ quan đã lập hồ sơ để hoàn thiện theo quy định tại Điều 14 Luật Tương trợ tư pháp năm 2007.

[4]. Danh sách các cơ quan có thẩm quyền được quy định tại Điều 17 Thông tư liên tịch số 12.

[5]. Khoản 3 Điều 20 Thông tư liên tịch số 12.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Giải trừ trách nhiệm của công chức thuế, tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp

Luật số 56/2024/QH15 bổ sung quy định về trách nhiệm của công chức thuế theo hướng giải trừ trách nhiệm cho công chức thuế khi có gian lận trong kê khai, cung cấp thông tin tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp chân chính.

Cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng

Hải Phòng là địa phương luôn nỗ lực, tích cực thực hiện cải cách thủ tục hành chính, với mục tiêu tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, trong đó phải kể đến lĩnh vực cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Điều này được thể hiện rõ nét qua sự quyết tâm, chủ động, sáng tạo trong triển khai, thực hiện các văn bản, quy định nhằm cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân trong bối cảnh chuyển đổi số và những khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết bàn về những vấn đề cơ bản của quyền riêng tư và sự cần thiết phải bảo vệ quyền riêng tư; phân tích các vấn đề pháp lý về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân theo pháp luật quốc tế, từ đó đúc kết và đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này tại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số.

Bảo đảm quyền văn hóa của người dân tộc thiểu số trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết nghiên cứu về những vấn đề đặt ra đối với việc bảo đảm quyền văn hóa của người dân tộc thiếu số ở nước ta hiện nay trong bối cảnh chuyển đổi số.

Xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới

Bài viết đề cập đến vấn đề xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp trong sạch, vững mạnh, liêm chính, chuyên nghiệp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nâng cao hiệu quả công tác xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân ở các cơ sở giam giữ

Nâng cao hiệu quả công tác xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân ở các cơ sở giam giữ

Thi đua chấp hành án phạt tù tại các cơ sở giam giữ là một trong những yêu cầu phạm nhân phải thực hiện theo quy định của pháp luật. Kết quả của việc thi đua chấp hành án phạt tù là cơ sở để thực hiện các chính sách của Nhà nước đối với phạm nhân theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2019. Công tác xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân thuộc về cơ sở giam giữ phạm nhân theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành cho thấy một số khó khăn, vướng mắc cần có giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian tới.
Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum đẩy mạnh hoạt động xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp

Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum đẩy mạnh hoạt động xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp

Nhận thức rõ tầm quan trọng của dữ liệu lý lịch tư pháp trong tiến trình xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số, công dân số, phục vụ tốt nhất cho người dân và doanh nghiệp thông qua việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua môi trường điện tử theo tinh thần của Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án số 06/CP của Chính phủ), được sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh, Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum đã ban hành và tổ chức thực hiện Kế hoạch số 64/KH-STP ngày 18/7/2024 về cao điểm nhập dữ liệu thông tin lý lịch tư pháp vào Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp dùng chung của Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum.

Công tác tư pháp 06 tháng cuối năm 2024: Tập trung hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành Tư pháp

Trong 06 tháng đầu năm 2024, Bộ, Ngành Tư pháp đã bám sát sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, sự điều hành của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, đoàn kết, trách nhiệm, tập trung triển khai toàn diện, kịp thời các nhiệm vụ được giao đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội của đất nước. Theo đó, để hoàn thành tốt kế hoạch công tác năm 2024, Bộ, Ngành Tư pháp đã đề ra những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của 06 tháng cuối năm, trong đó xác định tiếp tục đổi mới, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; tiếp tục đầu tư nguồn lực, cơ sở hạ tầng để đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong Ngành Tư pháp... góp phần vào công cuộc phát triển đất nước trong tình hình mới.
Một số ý kiến góp ý đối với Đề cương chi tiết Luật Luật sư thay thế Luật Luật sư năm 2006

Một số ý kiến góp ý đối với Đề cương chi tiết Luật Luật sư thay thế Luật Luật sư năm 2006

Một trong các nhiệm vụ và giải pháp được xác định trong Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) đã xác định: “Hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư, bảo đảm để luật sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật...”.
Hoạt động đấu giá tài sản tiếp tục được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa một cách mạnh mẽ

Hoạt động đấu giá tài sản tiếp tục được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa một cách mạnh mẽ

Ngày 27/6/2024, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản nhằm góp phần phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; tiếp tục nâng cao tính chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa của đội ngũ đấu giá viên, tổ chức đấu giá tài sản; khắc phục những hạn chế, bất cập, bảo đảm tính công khai, minh bạch, khách quan, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động đấu giá tài sản; nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý nhà nước về đấu giá tài sản. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2025.
Nỗ lực số hóa dữ liệu hộ tịch - Phấn đấu đẩy nhanh tiến độ, “về đích” sớm*

Nỗ lực số hóa dữ liệu hộ tịch - Phấn đấu đẩy nhanh tiến độ, “về đích” sớm*

Số hóa dữ liệu hộ tịch được xác định là một trong các nhiệm vụ trọng tâm của Ngành Tư pháp năm 2024. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, các cơ quan đăng ký hộ tịch trên cả nước đang lưu trữ trên 08 triệu sổ đăng ký hộ tịch các loại, tương ứng với hơn 100 triệu dữ liệu hộ tịch, việc hoàn thành số hóa các dữ liệu hộ tịch vừa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ - xác định năm 2024 là năm số hóa dữ liệu, vừa bảo đảm cung cấp thông tin đầu vào, chia sẻ, đồng bộ dữ liệu dân cư, thúc đẩy việc triển khai Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 ban hành kèm theo Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ (Đề án 06).
Tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng trong thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở tại tỉnh Quảng Trị

Tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng trong thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở tại tỉnh Quảng Trị

Tổ chức, triển khai thực hiện đưa Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở vào cuộc sống là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng hiện nay góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng gắn với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng”.

Đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp

Bài viết này khái quát về đơn giản hóa thủ tục hành chính và phân tích thực trạng về thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp, từ đó, đưa ra một số đề xuất cắt giảm, đơn giản hóa các quy định, thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp trong thời gian tới.
Cấp phiếu lý lịch tư pháp qua ứng dụng VNeID tại Thành phố Hà Nội và tỉnh Thừa Thiên Huế - Kết quả bước đầu và vấn đề cần hoàn thiện

Cấp phiếu lý lịch tư pháp qua ứng dụng VNeID tại Thành phố Hà Nội và tỉnh Thừa Thiên Huế - Kết quả bước đầu và vấn đề cần hoàn thiện

Bài viết nêu lên những kết quả bước đầu của công tác thí điểm cấp Phiếu lý lịch tư pháp trên ứng dụng VNeID tại Thành phố Hà Nội và tỉnh Thừa Thiên Huế; từ đó, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cấp Phiếu lý lịch tư pháp trên ứng dụng VNeID trong thời gian tới.
Dấu ấn vị Bộ trưởng qua gần 8 năm “dẫn dắt” ngành Tư pháp

Dấu ấn vị Bộ trưởng qua gần 8 năm “dẫn dắt” ngành Tư pháp

Gần 8 năm trên cương vị Bộ trưởng Tư pháp, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự đảng, Bộ trưởng Lê Thành Long luôn là vị Bộ trưởng của hành động, nắm chắc lý luận, sâu sát thực tiễn, truyền lửa đam mê tới mỗi công chức, viên chức, người lao động trong toàn Ngành.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm