Thứ ba 10/06/2025 12:46
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Xác định thời điểm hết hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật trong một số trường hợp

Việc xác định đúng thời điểm có hiệu lực cũng như thời điểm hết hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật là vấn đề vô cùng quan trọng trong quá trình áp dụng pháp luật. Điều 154 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015

Việc xác định đúng thời điểm có hiệu lực cũng như thời điểm hết hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật là vấn đề vô cùng quan trọng trong quá trình áp dụng pháp luật. Điều 154 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định 04 trường hợp văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần, bao gồm: “1. Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản; 2. Được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật mới của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó; 3. Bị bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; 4. Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành, văn bản đó cũng đồng thời hết hiệu lực”.

Trên thực tế, có rất nhiều tình huống khi áp dụng quy định tại Điều 154 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 để xác định hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật thì người/cơ quan áp dụng pháp luật không tránh khỏi sự lúng túng, khó khăn trong việc xác định văn bản hết hiệu lực thuộc trường hợp nào. Cụ thể trong một số trường hợp điển hình sau đây:

1. Đối với trường hợp hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản

Không có nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể thời hạn hết hiệu lực trong văn bản mà phần lớn các văn bản quy phạm pháp luật chỉ quy định thời điểm có hiệu lực của văn bản. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định và hướng dẫn việc xác định thời điểm (ngày) có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật, tuy nhiên, lại chưa có quy định cụ thể để xác định thời điểm (ngày) hết hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật. Do đó, để xác định trường hợp nào là “hết thời hạn có hiệu lực được quy định trong văn bản” cũng không phải là vấn đề đơn giản.

Ví dụ như, ngày 01/02/2016, Ủy ban nhân dân tỉnh A ban hành Quyết định số 01/2016/QĐ-UBND quy định giá sản phẩm, dịch vụ công ích thủy lợi giai đoạn 2016 - 2018 trên địa bàn tỉnh A; ngày 01/12/2018, Ủy ban nhân dân tỉnh A ban hành Quyết định số 10/2018/QĐ-UBND quy định giá thóc thu thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 2019 trên địa bàn tỉnh A. Cả hai trường hợp này, tại điều khoản về hiệu lực thi hành của văn bản chỉ quy định thời điểm có hiệu lực của văn không có nội dung quy định về thời điểm hết hiệu lực của văn bản. Trong quá trình áp dụng, việc xác định thời điểm hết hiệu lực của văn bản có hai luồng quan điểm như sau: (i) Luồng quan điểm thứ nhất cho rằng, thời điểm hết hiệu lực của văn bản trong hai trường hợp này đã được xác định ngay trong văn bản, cụ thể đối với Quyết định số 01/2016/QĐ-UBND, văn bản này chỉ áp dụng trong giai đoạn 2016 – 2018, do đó, văn bản này chỉ có hiệu lực đến ngày 31/12/2018; đối với Quyết định số 10/2018/QĐ-UBND, văn bản này quy định giá thóc thu thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 2019, do đó, văn bản này chỉ có hiệu lực đến ngày 31/12/2019; (ii) Luồng quan điểm thứ hai cho rằng, hiệu lực thi hành của văn bản phải được xác định cụ thể ngày, tháng, năm có hiệu lực của văn bản, cho nên, trường hợp “hết thời hạn có hiệu lực được quy định trong văn bản” thì trong văn bản phải quy định cụ thể ngày, tháng, năm hết hiệu lực của văn bản.

2. Đối với trường hợp văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành văn bản đó cũng đồng thời hết hiệu lực

Tình huống thứ nhất, ngày 10/8/2018, Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 71/2018/TT-BTC quy định chế độ tiếp khách nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam, chế độ chi tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam và chế độ tiếp khách trong nước. Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 01/11/2018 và Thông tư này bãi bỏ Thông tư số 01/2010/TT-BTC ngày 06/01/2010 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định chế độ chi tiêu đón tiếp khách nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam, chi tiêu tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam và chi tiêu tiếp khách trong nước.

Tại Điều 33 Thông tư số 71/2018/TT-BTC quy định, tiếp tục giao cho Hội đổng nhân dân cấp tỉnh quy định chi tiết mức chi cụ thể tiếp khách nước ngoài, tổ chức hội nghị quốc tế tại Việt Nam, chi tiếp khách trong nước của địa phương. Tuy nhiên, phần lớn ở các địa phương, kỳ họp Hội đồng nhân dân cấp tỉnh diễn ra vào khoảng nửa đầu tháng 12/2018, do đó, một số địa phương “không kịp” xây dựng và trình Hội đồng nhân dân tại kỳ họp này thông qua nghị quyết quy định chi tiết mức chi cụ thể tiếp khách nước ngoài, tổ chức hội nghị quốc tế tại Việt Nam, chi tiếp khách trong nước của địa phương. Trên thực tế, ở địa phương vẫn xác định trường hợp Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ban hành nghị quyết quy định chế độ chi tiêu (mức chi cụ thể) đón tiếp khách nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam, chi tiêu tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam và chi tiêu tiếp khách trong nước trên địa bàn của địa phương - Nghị quyết quy định chi tiết Thông tư số 01/2010/TT-BTC ngày 06/01/2010 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, thì Nghị quyết này sẽ hết hiệu lực kể từ ngày 01/11/2018 (áp dụng quy định khoản 4 Điều 154 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 để xác định thời điểm hết hiệu lực của văn bản), nếu địa phương chưa kịp ban hành nghị quyết mới quy định chi tiết Thông tư số 71/2018/TT-BTC, thì sẽ áp dụng mức chi cụ thể tiếp khách nước ngoài, tổ chức hội nghị quốc tế tại Việt Nam, chi tiếp khách trong nước của địa phương theo quy định tại khoản 4 Điều 33 Thông tư số 71/2018/TT-BTC.

Tình huống thứ hai, ngày 26/7/2018, Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 61/2018/TT-BTC quy định nội dung và mức chi để thực hiện chế độ dinh dưỡng đối với huấn luyện viên, vận động viên thể thao thành tích cao, Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 15/8/2018 và thay thế Thông tư liên tịch số 149/2011/TTLT-BTC-BVHTTDL ngày 07/11/2011 của liên Bộ Tài chính, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hướng dẫn chế độ dinh dưỡng đặc thù đối với huấn luyện viên, vận động viên thể thao thành tích cao.

Tại khoản 2 Điều 6 Thông tư số 61/2018/TT-BTC quy định “Căn cứ mức chi quy định tại Thông tư này và khả năng cân đối nguồn ngân sách của địa phương: Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp quy định mức chi và việc sử dụng kinh phí thực hiện chế độ dinh dưỡng đối với huấn luyện viên, vận động viên thuộc địa phương quản lý (trong đó bao gồm cả đội tuyển cấp huyện) phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương và đảm bảo theo quy định hiện hành”. Tuy nhiên, Thông tư này lại không có quy định hướng dẫn đối với trường hợp địa phương chưa ban hành văn bản quy định mức chi cụ thể theo quy định về nội dung và mức chi tại Thông tư số 61/2018/TT-BTC thì thực hiện như thế nào. Trên thực tế áp dụng văn bản, có hai luồng quan điểm: (i) Luồng quan điểm thứ nhất, kể từ ngày 15/8/2018, văn bản quy phạm pháp luật của địa phương quy định chi tiết Thông tư liên tịch số 149/2011/TTLT-BTC-BVHTTDL sẽ hết hiệu đồng thời với Thông tư liên tịch số 149/2011/TTLT-BTC-BVHTTDL, trường hợp địa phương chưa ban hành văn bản quy định mức chi cụ thể theo quy định về nội dung và mức chi tại Thông tư số 61/2018/TT-BTC thì sẽ áp dụng trực tiếp quy định về nội dung chi, mức chi tại Thông tư số 61/2018/TT-BTC; (ii) Luồng quan điểm thứ hai lại cho rằng, Thông tư số 61/2018/TT-BTC giao cho địa phương ban hành văn bản quy định chi tiết mức chi áp dụng tại địa phương, do đó, trường hợp địa phương chưa ban hành văn bản quy định mức chi cụ thể theo quy định về nội dung và mức chi tại Thông tư số 61/2018/TT-BTC thì địa phương vẫn sẽ áp dụng văn bản của địa phương quy định chi tiết Thông tư liên tịch số 149/2011/TTLT-BTC-BVHTTDL, văn bản của địa phương quy định chi tiết Thông tư liên tịch số 149/2011/TTLT-BTC-BVHTTDL sẽ không hết hiệu lực đồng thời với Thông tư liên tịch số 149/2011/TTLT-BTC-BVHTTDL theo quy định tại khoản 4 Điều 154 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.

Để xác định thời điểm hết hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật thì phải trên cơ sở quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, vì hiện nay, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP chưa có quy định cụ thể trong việc xác định thời điểm hết hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật cũng như trong một số lĩnh vực cụ thể việc hướng dẫn áp dụng văn bản pháp luật khác nhau, chẳng hạn như trường hợp quy định tại Thông tư số 71/2018/TT-BTC và Thông tư số 61/2018/TT-BTC nói trên; hoặc trường hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 123/2017/NĐ-CP ngày 14/11/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định về thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước;… dẫn đến việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật nói chung cũng như việc xác định thời điểm hết hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật nói riêng vẫn chưa có sự thống nhất. Hy vọng rằng, quá trình hoàn thiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sẽ khắc phục được vấn đề này.

Lương Thị Thảo

Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Giải trừ trách nhiệm của công chức thuế, tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp

Luật số 56/2024/QH15 bổ sung quy định về trách nhiệm của công chức thuế theo hướng giải trừ trách nhiệm cho công chức thuế khi có gian lận trong kê khai, cung cấp thông tin tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp chân chính.

Cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng

Hải Phòng là địa phương luôn nỗ lực, tích cực thực hiện cải cách thủ tục hành chính, với mục tiêu tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, trong đó phải kể đến lĩnh vực cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Điều này được thể hiện rõ nét qua sự quyết tâm, chủ động, sáng tạo trong triển khai, thực hiện các văn bản, quy định nhằm cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân trong bối cảnh chuyển đổi số và những khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết bàn về những vấn đề cơ bản của quyền riêng tư và sự cần thiết phải bảo vệ quyền riêng tư; phân tích các vấn đề pháp lý về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân theo pháp luật quốc tế, từ đó đúc kết và đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này tại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số.

Bảo đảm quyền văn hóa của người dân tộc thiểu số trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết nghiên cứu về những vấn đề đặt ra đối với việc bảo đảm quyền văn hóa của người dân tộc thiếu số ở nước ta hiện nay trong bối cảnh chuyển đổi số.

Xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới

Bài viết đề cập đến vấn đề xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp trong sạch, vững mạnh, liêm chính, chuyên nghiệp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nâng cao hiệu quả công tác xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân ở các cơ sở giam giữ

Nâng cao hiệu quả công tác xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân ở các cơ sở giam giữ

Thi đua chấp hành án phạt tù tại các cơ sở giam giữ là một trong những yêu cầu phạm nhân phải thực hiện theo quy định của pháp luật. Kết quả của việc thi đua chấp hành án phạt tù là cơ sở để thực hiện các chính sách của Nhà nước đối với phạm nhân theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2019. Công tác xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân thuộc về cơ sở giam giữ phạm nhân theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành cho thấy một số khó khăn, vướng mắc cần có giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian tới.
Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum đẩy mạnh hoạt động xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp

Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum đẩy mạnh hoạt động xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp

Nhận thức rõ tầm quan trọng của dữ liệu lý lịch tư pháp trong tiến trình xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số, công dân số, phục vụ tốt nhất cho người dân và doanh nghiệp thông qua việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua môi trường điện tử theo tinh thần của Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án số 06/CP của Chính phủ), được sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh, Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum đã ban hành và tổ chức thực hiện Kế hoạch số 64/KH-STP ngày 18/7/2024 về cao điểm nhập dữ liệu thông tin lý lịch tư pháp vào Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp dùng chung của Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum.

Công tác tư pháp 06 tháng cuối năm 2024: Tập trung hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành Tư pháp

Trong 06 tháng đầu năm 2024, Bộ, Ngành Tư pháp đã bám sát sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, sự điều hành của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, đoàn kết, trách nhiệm, tập trung triển khai toàn diện, kịp thời các nhiệm vụ được giao đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội của đất nước. Theo đó, để hoàn thành tốt kế hoạch công tác năm 2024, Bộ, Ngành Tư pháp đã đề ra những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của 06 tháng cuối năm, trong đó xác định tiếp tục đổi mới, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; tiếp tục đầu tư nguồn lực, cơ sở hạ tầng để đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong Ngành Tư pháp... góp phần vào công cuộc phát triển đất nước trong tình hình mới.
Một số ý kiến góp ý đối với Đề cương chi tiết Luật Luật sư thay thế Luật Luật sư năm 2006

Một số ý kiến góp ý đối với Đề cương chi tiết Luật Luật sư thay thế Luật Luật sư năm 2006

Một trong các nhiệm vụ và giải pháp được xác định trong Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) đã xác định: “Hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư, bảo đảm để luật sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật...”.
Hoạt động đấu giá tài sản tiếp tục được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa một cách mạnh mẽ

Hoạt động đấu giá tài sản tiếp tục được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa một cách mạnh mẽ

Ngày 27/6/2024, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản nhằm góp phần phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; tiếp tục nâng cao tính chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa của đội ngũ đấu giá viên, tổ chức đấu giá tài sản; khắc phục những hạn chế, bất cập, bảo đảm tính công khai, minh bạch, khách quan, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động đấu giá tài sản; nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý nhà nước về đấu giá tài sản. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2025.
Nỗ lực số hóa dữ liệu hộ tịch - Phấn đấu đẩy nhanh tiến độ, “về đích” sớm*

Nỗ lực số hóa dữ liệu hộ tịch - Phấn đấu đẩy nhanh tiến độ, “về đích” sớm*

Số hóa dữ liệu hộ tịch được xác định là một trong các nhiệm vụ trọng tâm của Ngành Tư pháp năm 2024. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, các cơ quan đăng ký hộ tịch trên cả nước đang lưu trữ trên 08 triệu sổ đăng ký hộ tịch các loại, tương ứng với hơn 100 triệu dữ liệu hộ tịch, việc hoàn thành số hóa các dữ liệu hộ tịch vừa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ - xác định năm 2024 là năm số hóa dữ liệu, vừa bảo đảm cung cấp thông tin đầu vào, chia sẻ, đồng bộ dữ liệu dân cư, thúc đẩy việc triển khai Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 ban hành kèm theo Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ (Đề án 06).
Tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng trong thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở tại tỉnh Quảng Trị

Tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng trong thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở tại tỉnh Quảng Trị

Tổ chức, triển khai thực hiện đưa Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở vào cuộc sống là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng hiện nay góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng gắn với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng”.

Đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp

Bài viết này khái quát về đơn giản hóa thủ tục hành chính và phân tích thực trạng về thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp, từ đó, đưa ra một số đề xuất cắt giảm, đơn giản hóa các quy định, thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp trong thời gian tới.
Cấp phiếu lý lịch tư pháp qua ứng dụng VNeID tại Thành phố Hà Nội và tỉnh Thừa Thiên Huế - Kết quả bước đầu và vấn đề cần hoàn thiện

Cấp phiếu lý lịch tư pháp qua ứng dụng VNeID tại Thành phố Hà Nội và tỉnh Thừa Thiên Huế - Kết quả bước đầu và vấn đề cần hoàn thiện

Bài viết nêu lên những kết quả bước đầu của công tác thí điểm cấp Phiếu lý lịch tư pháp trên ứng dụng VNeID tại Thành phố Hà Nội và tỉnh Thừa Thiên Huế; từ đó, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cấp Phiếu lý lịch tư pháp trên ứng dụng VNeID trong thời gian tới.
Dấu ấn vị Bộ trưởng qua gần 8 năm “dẫn dắt” ngành Tư pháp

Dấu ấn vị Bộ trưởng qua gần 8 năm “dẫn dắt” ngành Tư pháp

Gần 8 năm trên cương vị Bộ trưởng Tư pháp, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự đảng, Bộ trưởng Lê Thành Long luôn là vị Bộ trưởng của hành động, nắm chắc lý luận, sâu sát thực tiễn, truyền lửa đam mê tới mỗi công chức, viên chức, người lao động trong toàn Ngành.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm