1. Sự ghi nhận về hợp đồng gia nhập theo pháp luật Việt Nam
Ở Việt Nam, hợp đồng gia nhập mới chỉ xuất hiện trong mấy thập kỷ gần đây nhưng tần suất được sử dụng ngày một nhiều, đặc biệt là loại hợp đồng được giao kết giữa thương nhân với người tiêu dùng trong các lĩnh vực thiết yếu của đời sống xã hội như: Điện; nước; truyền hình trả tiền; điện thoại cố định; di động trả sau… Chính vì vậy, việc ghi nhận và luật hóa các quy định liên quan đến hợp đồng gia nhập đã được thực hiện nhằm quản lý, định hướng các hoạt động cung ứng hàng hóa, dịch vụ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng cũng như duy trì sự ổn định, phát triển của các giao dịch dân sự.
Để cụ thể hóa tinh thần trên, ngay từ Bộ luật Dân sự năm 1995 đến Bộ luật Dân sự năm 2005 và hiện tại là Bộ luật Dân sự năm 2015[1] đều có những quy định về “hợp đồng theo mẫu”. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 cũng có khá nhiều quy định liên quan đến loại hợp đồng này[2]. Bên cạnh đó, hợp đồng gia nhập và các vấn đề liên quan còn được quy định tại nhiều văn bản dưới luật khác như: Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày 27/10/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg ngày 13/01/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung; Thông tư số 10/2013/TT-BCT ngày 30/5/2013 của Bộ Công thương về việc ban hành mẫu đơn đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung; Quyết định số 35/2015/QĐ-TTg ngày 20/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg ngày 13/01/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung... Đây chính là cơ sở pháp lý điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hợp đồng gia nhập hiện nay tại Việt Nam.
2. Đặc điểm pháp lý của hợp đồng gia nhập
Thực tiễn cho thấy, mỗi quốc gia lại có cách tiếp cận và đưa ra khái niệm khác nhau về loại hợp đồng này. Một số quốc gia cho rằng đây là hợp đồng mẫu (standard form contract); một số quốc gia khác lại coi là hợp đồng gia nhập (adhesion contract); trong khi đó, tiếp cận hợp đồng ở tính ứng dụng của “nó” thì có quan niệm cho rằng đây là hợp đồng hàng loạt (boilerplate contract). Tuy nhiên, xét ở góc độ bản chất, “nó” đều mang những đặc điểm pháp lý như nhau và phản ánh cùng một đối tượng. Qua nghiên cứu, có thể thấy rằng, hợp đồng gia nhập bên cạnh đặc điểm chung của hợp đồng thông thường, thì nó còn có một số đặc điểm riêng như sau:
Thứ nhất, tính “gia nhập” và “tính áp dụng hàng loạt” là những đặc điểm nổi bật nhất của loại hợp đồng này. Tính gia nhập của hợp đồng gia nhập thể hiện ở chỗ các điều khoản của hợp đồng do một bên (thương nhân) soạn sẵn và đưa ra đề nghị giao kết với bên kia. Trong trường hợp bên được đề nghị chấp nhận các điều khoản của hợp đồng, hợp đồng sẽ được giao kết và khi đó, bên được đề nghị đã gia nhập hợp đồng, ví dụ: Hợp đồng cung cấp điện sinh hoạt; hợp đồng cung cấp nước sinh hoạt… Bên gia nhập hợp đồng ở đây chính là người mua, sử dụng điện, nước do thương nhân cung cấp. Trường hợp bên được đề nghị không chấp nhận các điều khoản của hợp đồng, lúc này, hợp đồng không được giao kết và đương nhiên bên được đề nghị không gia nhập hợp đồng.
Nếu như trong hợp đồng truyền thống, sự thỏa thuận ý chí của các bên trong quá trình đàm phán, thương lượng về các điều khoản của hợp đồng luôn được tôn trọng và đề cao, thì trong hợp đồng gia nhập, các điều khoản của hợp đồng đã được bên đề nghị soạn sẵn, bên được đề nghị không có quyền đàm phán, thương lượng, mà chỉ có quyền chấp nhận hoặc không chấp nhận việc giao kết hợp đồng. Trong hợp đồng gia nhập, sự tự do thương lượng bị thủ tiêu[3]. Về tính áp dụng hàng loạt, nếu như trong hợp đồng truyền thống, để giao kết hợp đồng, thương nhân phải đàm phán, thương lượng riêng rẽ với từng khách hàng về các điều khoản của hợp đồng và hệ quả của quá trình đàm phán, thương lượng đó sẽ tạo ra các hợp đồng có nội dung khác nhau để áp dụng riêng biệt cho từng khách hàng cụ thể; thì trong hợp đồng gia nhập, thương nhân soạn sẵn các điều khoản trong một mẫu hợp đồng và dùng mẫu hợp đồng đó áp dụng hàng loạt đối với những khách hàng khi họ mua, sử dụng cùng một loại hàng hóa, dịch vụ.
Thứ hai, sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng gia nhập bị hạn chế và sự ưng thuận trong giao kết hợp đồng chỉ là một thời điểm. Theo lý thuyết truyền thống, hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự[4]. Như vậy, khi nghiên cứu về hợp đồng nói chung và hợp đồng gia nhập nói riêng, chúng ta cần quan tâm đến hai yếu tố, đó là tự do ý chí và sự ưng thuận. Khi đề cập đến nguyên tắc tự do ý chí trong hợp đồng theo mẫu được quy định tại khoản 1 Điều 405 Bộ luật Dân sự năm 2015, nhà làm luật nhấn mạnh đến yếu tố các điều khoản của hợp đồng là do một bên đưa ra và bên kia chỉ có quyền ưng thuận - tức chấp nhận toàn bộ các điều khoản hợp đồng đó hoặc không ưng thuận. Cho nên, xuất phát từ tính chất đặc thù của hợp đồng gia nhập dẫn đến sự ưng thuận trong giao kết hợp đồng không diễn ra một cách hoàn chỉnh như trong hợp đồng truyền thống bởi bên được đề nghị chỉ có quyền chấp nhận hoặc không chấp nhận các điều khoản của hợp đồng do bên đề nghị đưa ra mà không có quyền đàm phán, thương lượng về các điều khoản đó. Sự ưng thuận trong giao kết hợp đồng gia nhập chỉ là một thời điểm và diễn ra khi người tiêu dùng chấp nhận hoặc không chấp nhận toàn bộ nội dung của hợp đồng[5].
Thứ ba, thông tin bất cân xứng trong giao kết và thực hiện hợp đồng gia nhập. Trong giao dịch truyền thống, sự chênh lệnh về vị thế của các bên giao kết hợp đồng không rõ ràng và thường là ngang bằng nhau. Do đó, nguyên tắc bình đẳng, công bằng trong giao kết và thực hiện hợp đồng có cơ sở đảm bảo. Tuy nhiên, trong giao dịch giữa một bên là cá nhân người tiêu dùng, một bên là nhà kinh doanh thì sự chênh lệnh này lại càng rõ ràng[6]. Thực tế cho thấy, bên đề nghị là bên có vị thế, tiềm lực tài chính cao hơn, đặc biệt là họ am hiểu về sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cũng như các thông tin liên quan đến việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ đó cho khách hàng. Ở phía ngược lại, bên được đề nghị thường có vị thế thấp hơn do bị hạn chế bởi khả năng tài chính, chuyên môn, đặc biệt là việc không nắm rõ các thông tin liên quan đến hàng hóa, dịch vụ mà mình dự định mua, sử dụng. Do đó, bên được đề nghị không thể sử dụng các yếu tố đó như một phương tiện hữu hiệu để đàm phán, thương lượng về các điều khoản của hợp đồng. Có thể thấy rõ điều này khi các bên giao kết hợp đồng cung cấp điện, cung cấp nước sinh hoạt. Chính vì vậy, thông tin bất cân xứng đã làm cho vị thế của các bên trong giao kết hợp đồng gia nhập không ngang bằng nhau và đây là một trong những đặc điểm của loại hình hợp đồng này.
Thứ tư, hình thức của hợp đồng gia nhập thông dụng và phù hợp là ở dạng văn bản. Theo lý thuyết truyền thống, hình thức của hợp đồng gồm: Văn bản; lời nói và hành vi cụ thể. Thực tiễn cho thấy, hợp đồng gia nhập thường được sử dụng dưới hình thức văn bản. Văn bản có thể được hiểu là phương tiện ghi nhận và thể hiện các ký tự trên bất kỳ dạng vật chất nào. Văn bản ở đây được hiểu là bất kỳ hình thức nào, bao gồm cả điện tín và telex cũng như các cách thức truyền thông khác dưới dạng văn bản có thể lưu giữ được thông tin và có khả năng được sao chép lại dưới dạng hữu hình[7]. Do hợp đồng gia nhập được sử dụng dưới hình thức văn bản nên các điều khoản của nó được thương nhân soạn thảo tỉ mỉ, chi tiết và đôi khi rất dài dòng để hướng tới mục đích chính là nhằm bao trùm tất cả các nội dung mà thương nhân muốn chuyển tải vào trong hợp đồng. Trong một số trường hợp, thương nhân còn làm phức tạp thêm nội dung của hợp đồng mà mục đích là để khách hàng khi đọc sẽ không thể hiểu hết các điều khoản đó trừ trường hợp là chuyên gia hoặc có đủ thời gian hợp lý để nghiên cứu. Điều này khiến cho người tiêu dùng rất ít khi đọc hợp đồng mặc dù không ít người trong số họ cũng là người am hiểu pháp luật và đã ý thức được việc không đọc, cũng như không hiểu gì về hợp đồng khi giao kết hợp đồng là có tính rủi ro pháp lý rất cao[8].
Thứ năm, nội dung của hợp đồng gia nhập phản ánh sự áp đặt, bảo vệ tối đa lợi ích của thương nhân. Thực tế cho thấy các điều khoản của hợp đồng gia nhập có nội dung rất dài, tỉ mỉ và thường được trình bày bằng ngôn ngữ chuyên môn khó hiểu khiến cho bên được đề nghị dù đọc đi đọc lại nhiều lần nhưng vẫn rất khó khăn để hiểu được hết ý nghĩa của câu, từ, nếu không muốn nói đến mục đích của bên đề nghị. Hơn nữa, tâm lý của bên được đề nghị khi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ thường chỉ quan tâm đến các yếu tố cơ bản như: Giá cả; số lượng; chất lượng..., mà ít khi quan tâm đến các yếu tố khác liên quan. Chính vì vậy, trong một số trường hợp, sau khi đã được đại diện của thương nhân hứa hẹn, giải thích về các yếu tố nói trên, bên được đề nghị dễ dàng bỏ qua các yếu tố khác liên quan đến lợi ích của họ. Tâm lý của bên được đề nghị như vậy, vô hình trung làm cho nội dung hợp đồng gia nhập ít khi được đọc hoặc có chăng chỉ là các điều khoản chính chứa đựng các yếu tố kể trên. Trong khi đó, thực tiễn cho thấy là nhiều vụ tranh chấp xảy ra giữa các bên trong quan hệ hợp đồng gia nhập lại thường liên quan đến các vấn đề bên ngoài các yếu tố đã đề cập.
Từ phân tích các đặc điểm pháp lý ở trên, có thể đưa ra định nghĩa: “Hợp đồng gia nhập là hợp đồng mà các điều khoản của nó do một bên soạn sẵn dưới một hình thức nhất định nhằm mục đích giao kết với nhiều người mua, sử dụng cùng một loại hàng hóa, dịch vụ của họ. Bên được đề nghị có quyền trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận, coi như chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng mà bên đề nghị đã đưa ra”.
3. Một số nguyên tắc trong giao kết và thực hiện hợp đồng gia nhập
Một là, trong giao kết và thực hiện hợp đồng gia nhập, điều khoản không rõ ràng sẽ được giải thích theo hướng bất lợi cho bên đưa ra hợp đồng. Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó”[9]. Nguyên tắc này có ý nghĩa rất quan trọng mà mục đích chính là hạn chế việc thương nhân lợi dụng ưu thế về khả năng về tài chính, chuyên môn và địa vị xã hội vốn có của mình để “cài cắm” các điều khoản bất lợi cho người tiêu dùng. Nguyên tắc này cũng nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng gia nhập cũng như đảm bảo việc duy trì quan hệ hợp đồng ổn định và phát triển.
Hai là, khi thực hiện hợp đồng gia nhập, điều khoản miễn trách nhiệm của thương nhân, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng mà có trong hợp đồng thì điều khoản này không có hiệu lực pháp luật. Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”[10]. Về ý nghĩa, với nguyên tắc này, nhà làm luật muốn ngăn chặn thương nhân lợi dụng ưu thế về khả năng về tài chính, chuyên môn và địa vị xã hội vốn của của mình bằng việc đưa vào hợp đồng các điều khoản có lợi cho mình mà bất lợi cho người tiêu dùng. Mặt khác, nguyên tắc này cũng nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, hài hòa lợi ích của các bên trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng gia nhập.
Ba là, chủ thể của hợp đồng gia nhập phải chịu trách nhiệm dân sự. Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự”[11]. Đối tượng của hợp đồng gia nhập liên quan đến các loại hàng hóa, dịch vụ thiết yếu của cuộc sống và ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng và xã hội, do đó, việc chấp hành pháp luật của các bên tham gia hợp đồng gia nhập sẽ là nhân tố quan trọng mang lại hiệu quả trong việc thực hiện hợp đồng cũng như chất lượng của giao dịch giữa thương nhân và người tiêu dùng.
Bốn là, hợp đồng gia nhập được thực hiện trên tinh thần hợp tác, tôn trọng lợi ích hợp pháp của nhau. Trong quá trình thực hiện hợp đồng gia nhập, các bên phải hợp tác chặt chẽ với nhau. Sự hợp tác phải dựa trên tinh thần thiện chí, trung thực nhằm thực hiện đúng và đầy đủ các cam kết đã thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu trong quá trình thực hiện gặp khó khăn, hai bên cần bàn bạc để cùng nhau khắc phục. Trong trường hợp hợp đồng bị vi phạm và có nguy cơ phá vỡ thì hai bên đều có trách nhiệm thông báo kịp thời cho nhau biết các thiệt hại có thể xảy ra để có phương án xử lý. Bên có nghĩa vụ phải cố gắng hoàn thành tốt nhất nghĩa vụ của mình. Còn bên có quyền cũng cần có sự hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để bên có nghĩa vụ hoàn thành tốt nghĩa vụ của mình.
4. Hiệu lực của hợp đồng gia nhập
Tương tự như các hợp đồng thông dụng khác, hợp đồng gia nhập có hiệu lực kể từ thời điểm các bên giao kết hợp đồng. Hợp đồng gia nhập sẽ hết hiệu lực trong các trường hợp: Các bên thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ được qui định trong hợp đồng; khi sự kiện bất khả kháng xảy ra mà không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng; các trường hợp khác do các bên thỏa thuận trong hợp đồng đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên mà không trái pháp luật. Hợp đồng gia nhập có thể bao gồm các phụ lục. Các phụ lục là bộ phận không thể tách rời của hợp đồng chính. Hợp đồng gia nhập sẽ bị vô hiệu khi thiếu một trong các điều kiện để một hợp đồng có hiệu lực. Trên thực tế, sẽ xuất hiện tình trạng hợp đồng gia nhập đã được giao kết, song chưa có hiệu lực, ví dụ: Bên tham gia giao dịch không có năng lực hành vi hoặc trái với các nguyên tắc đã nêu ở trên; mục đích và nội dung giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội.
Hợp đồng gia nhập vô hiệu khác với hợp đồng gia nhập mất hiệu lực. Việc mất hiệu lực có thể xảy ra ở bất kỳ thời điểm nào khi xuất hiện các điều kiện làm mất hiệu lực và không mang tính hiệu lực hồi tố. Trong khi đó, hợp đồng gia nhập vô hiệu kéo theo hệ quả là toàn bộ quan hệ hợp đồng được coi như không tồn tại từ thời điểm bắt đầu giao kết.
Tóm lại, kể từ khi ra đời cho đến nay, hợp đồng gia nhập đã và đang được các thương nhân sử dụng rộng rãi và phổ biến trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nền kinh tế phát triển dẫn đến hệ quả là hợp đồng gia nhập được sử dụng với tần xuất ngày càng nhiều, đa dạng về lĩnh vực điều chỉnh và phức tạp hơn về nội dung. Chính vì vậy, vấn đề hiểu đúng, đầy đủ bản chất pháp lý của hợp đồng gia nhập có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với các bên giao kết hợp đồng mà còn đối với cả các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Văn phòng Luật sư Hiệp và Liên danh
PGS.TS. Doãn Hồng Nhung
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
[2]. Xem: Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2011, tr. 9.
[3]. Ngô Huy Cương (2009), “Tài liệu giảng dạy cao học: Luật hợp đồng”, Trích trong đề tài đặc biệt cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 32; tr. 162 - 170.
[4]. Xem: Điều 385 Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb. Lao động, Hà Nội 2016, tr. 164.
[5]. Ngô Văn Hiệp (2016), “Sự thỏa thuận trong giao kết hợp đồng gia nhập”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp - số 13 (317), tr. 28.
[6]. Doãn Hồng Nhung (Chủ biên), Hoàng Anh Dũng (2018), Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng theo mẫu trong mua bán căn hộ chung cư tại Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 25.
[7]. Viện thống nhất tư pháp quốc tế Roma - Italia (1999), Những nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 10.
[8]. Nguyễn Thị Ngọc Anh (2011), Pháp luật về hợp đồng dân sự theo mẫu trên thế giới - những kinh nghiệm đối với Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật quốc tế, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 15.
[9]. Xem: Khoản 2 Điều 405 Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2016, tr. 172.
[10]. Xem: Khoản 3 Điều 405 Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2016, tr. 172.
[11]. Xem: Khoản 5 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2016, tr. 6.