Cầm cố tài sản là việc một bên (bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ[1]. Thế chấp tài sản là việc một bên (bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (bên nhận thế chấp)[2]. Trong thực tiễn, việc thi hành án liên quan đến tài sản cầm cố, thế chấp là khá phổ biến. Đó có thể là trường hợp tài sản cầm cố, thế chấp được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án (thường gặp trong các việc thi hành án tín dụng); hoặc tài sản cầm cố, thế chấp phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành án và cơ quan thi hành án dân sự phải tiến hành kê biên, xử lý tài sản đó để thi hành án. Trong phạm vi bài viết, tác giả tập trung phân tích trường hợp tài sản cầm cố, thế chấp không được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án mà phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành án.
Theo Điều 90 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật Thi hành án dân sự), trường hợp người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án, chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án. Theo đó, trong trường hợp người phải thi hành án có nghĩa vụ thanh toán tiền mà người phải thi hành án có tài sản đang cầm cố, thế chấp thì chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý tài sản đó để thi hành án khi tài sản đáp ứng được đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Liên quan đến việc xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp, Luật Thi hành án dân sự không có quy định riêng về trình tự, thủ tục thi hành án liên quan đến tài sản này, ngoại trừ quy định tại Điều 90 Luật Thi hành án dân sự về kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp và một số quy định liên quan tại Điều 4, Điều 5 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự (Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC); Điều 11 Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 15/8/2017[3] (Nghị quyết số 42/2017/QH14). Việc thi hành án đối với tài sản cầm cố, thế chấp được thực hiện theo các quy định chung tại Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành.
1. Một số lưu ý khi tiến hành kê biên, xử lý tài sản đối với tài sản đang cầm cố, thế chấp
1.1. Về điều kiện xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp
Theo quy định tại Điều 90 Luật Thi hành án dân sự, chấp hành viên chỉ được kê biên tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp khi hội tụ đủ các điều kiện sau: (i) Người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có nhưng không đủ để thi hành án; (ii) Giá trị của tài sản đang cầm cố, thế chấp đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án.
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC, trường hợp tài sản cầm cố, thế chấp đủ điều kiện để kê biên, xử lý theo quy định tại Điều 90 Luật Thi hành án dân sự mà người nhận cầm cố, thế chấp đang tiến hành xử lý để thu hồi nợ vay theo quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm thì chấp hành viên không thực hiện việc kê biên, xử lý đối với tài sản đó nhưng phải có văn bản yêu cầu người xử lý tài sản cầm cố, thế chấp thông báo ngay kết quả xử lý tài sản cho cơ quan thi hành án dân sự, giữ lại số tiền còn lại (nếu có) để cơ quan thi hành án dân sự giải quyết theo quy định của pháp luật.
1.2. Trường hợp giá trị tài sản kê biên bị giảm thấp hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế
Theo khoản 3 Điều 4 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC, trường hợp chấp hành viên đã tiến hành kê biên, xử lý tài sản cầm cố, thế chấp theo Điều 90 Luật Thi hành án dân sự nhưng sau khi giảm giá theo quy định pháp luật mà giá của tài sản sau khi giảm giá không lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án thì người có thẩm quyền ra quyết định về thi hành án có trách nhiệm ra ngay quyết định thu hồi quyết định cưỡng chế, kê biên, xử lý tài sản theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 37 Luật Thi hành án dân sự, đồng thời có văn bản yêu cầu người nhận cầm cố, nhận thế chấp thông báo ngay kết quả xử lý tài sản cho cơ quan thi hành án dân sự, giữ lại số tiền còn lại (nếu có) để cơ quan thi hành án dân sự giải quyết theo quy định của pháp luật.
Về việc thanh toán chi phí cưỡng chế, theo quy định tại khoản 3 Điều 73 Luật Thi hành án dân sự và điểm b khoản 1 Điều 43 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ (Nghị định số 62/2015/NĐ-CP) thì tài sản cưỡng chế theo Điều 90 Luật Thi hành án dân sự nhưng sau khi giảm giá theo quy định mà giá trị bằng hoặc thấp hơn chi phí và nghĩa vụ được bảo đảm; tài sản bị cưỡng chế không còn hoặc bị mất giá trị sử dụng thì chi phí cưỡng chế thi hành án trong trường hợp này sẽ do ngân sách nhà nước chi trả.
1.3. Về thanh toán tiền thi hành án
Theo quy định tại khoản 3 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự: “Trường hợp xử lý tài sản cầm cố, thế chấp mà bên nhận cầm cố, thế chấp không phải là người được thi hành án thì người nhận cầm cố, thế chấp được ưu tiên thanh toán trước khi thanh toán các khoản theo quy định tại Điều này”. Như vậy, trong trường hợp người nhận cầm cố, thế chấp không phải là người được thi hành án, chấp hành viên cần ưu tiên thanh toán cho người nhận cầm cố, thế chấp trước sau đó mới thanh toán các khoản theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự.
1.4. Về thu phí thi hành án
Theo quy định tại khoản 7 Điều 3, Điều 60 Luật Thi hành án dân sự, phí thi hành án là khoản tiền mà người được thi hành án phải nộp khi nhận được tiền, tài sản theo bản án, quyết định và người được thi hành án phải nộp phí thi hành án dân sự. Do đó, khi tiến hành thanh toán tiền cho người nhận cầm cố, thế chấp mà không phải là người được thi hành án, cần lưu ý không thu phí thi hành án đối với người nhận cầm cố, thế chấp. Bởi vì, mặc dù người nhận cầm cố, thế chấp được nhận tiền nhưng người nhận cầm cố, thế chấp không phải là người được thi hành án, hơn nữa, người nhận cầm cố, thế chấp nhận khoản tiền này không phải là khoản tiền theo bản án, quyết định được thi hành.
2. Một số khó khăn khi kê biên, xử lý xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp để thi hành án và kiến nghị
Có thể thấy, các quy định pháp luật hiện hành đã quy định tương đối đầy đủ, rõ ràng về điều kiện kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp và phương thức xử lý trong trường hợp việc kê biên không bảo đảm đủ nghĩa vụ thi hành án và nghĩa vụ được bảo đảm. Tuy nhiên, trong thực tiễn, việc kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp để thi hành án vẫn còn gặp không ít khó khăn. Cụ thể:
Một là, về điều kiện để kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp.
Bên cạnh các điều kiện về tài sản thi hành án như đã phân tích ở trên, theo quy định tại Điều 11 Nghị quyết số 42/2017/QH14 thì: Các tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của bên phải thi hành án đang bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định tại Điều 90 của Luật Thi hành án dân sự, trừ trường hợp thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và trường hợp có sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu. Theo đó, cơ quan thi hành án dân sự chỉ kê biên tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo quy định tại Điều 90 Luật Thi hành án dân sự khi thuộc một trong các trường hợp sau: (i) Để thi hành bản án, quyết định của Tòa án về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; (ii) Có sự đồng ý kê biên bằng văn bản của tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng có trách nhiệm xác nhận bằng văn bản về việc tài sản đang cầm cố, thế chấp để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ cho khoản nợ xấu.
Có thể thấy, quy định nói trên cũng phần nào hạn chế các trường hợp kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp trong thực tế, vì rất ít trường hợp có thể đáp ứng được điều kiện này. Để bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người được thi hành án, cũng như bảo đảm bản án, quyết định được thi hành, nên chăng cần xem xét giảm bớt các điều kiện kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp, chỉ quy định các điều kiện như tại Điều 90 Luật Thi hành án dân sự là phù hợp.
Hai là, sự phối hợp của người nhận cầm cố, thế chấp.
Theo quy định pháp luật thì việc kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp hợp pháp để thi hành án không bắt buộc phải có sự đồng ý của người nhận cầm cố, thế chấp[4]. Khi kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp, chấp hành viên phải thông báo ngay cho người nhận cầm cố, nhận thế chấp. Tuy nhiên, trong thực tế, để kê biên, xử lý tài sản trong khi người đang nhận cầm cố, thế chấp không phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự cũng là một rào cản rất lớn khi áp dụng các quy định của pháp luật. Bởi vì, để có thể kê biên, xử lý tài sản thi hành án, chấp hành viên phải thực hiện rất nhiều các tác nghiệp khác nhau như thông báo thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án… Trong trường hợp người nhận cầm cố, thế chấp tài sản không phối hợp với cơ quan thi hành án như không cung cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không tham gia vào quá trình giải quyết việc thi hành án… thì việc kê biên, xử lý tài sản sẽ rất khó khăn, thậm chí có thể không thực hiện được.
Khoản 3 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP cũng quy định: Đối với tài sản đã được cầm cố, thế chấp hợp pháp mà kết quả xác minh tại thời điểm thi hành án cho thấy tài sản có giá trị bằng hoặc nhỏ hơn nghĩa vụ phải thanh toán theo hợp đồng cầm cố, thế chấp thì chấp hành viên phải thông báo bằng văn bản cho người nhận cầm cố, thế chấp biết nghĩa vụ của người phải thi hành án và yêu cầu khi thanh toán hết nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc khi xử lý tài sản cầm cố, thế chấp phải thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự biết. Cơ quan thi hành án dân sự kê biên tài sản sau khi đã được giải chấp hoặc thu phần tiền còn lại sau khi xử lý tài sản để thanh toán hợp đồng đã ký, nếu có. Trường hợp tài sản cầm cố, thế chấp đủ điều kiện để kê biên, xử lý theo quy định nhưng người nhận cầm cố, thế chấp đang tiến hành xử lý để thu hồi nợ vay theo quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm thì chấp hành viên không thực hiện việc kê biên, xử lý đối với tài sản đó nhưng phải có văn bản yêu cầu người xử lý tài sản cầm cố, thế chấp thông báo ngay kết quả xử lý tài sản cho cơ quan THADS, giữ lại số tiền còn lại (nếu có) để cơ quan thi hành án dân sự giải quyết theo quy định của pháp luật (khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC).
Tuy nhiên, thực tế vẫn còn có những trường hợp sau khi xử lý nợ vay, người nhận cầm cố, thế chấp không thực hiện việc thông báo cho cơ quan thi hành án về kết quả xử lý nợ vay. Mặc dù khoản 3 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP có quy định: Nếu người nhận cầm cố, thế chấp không thông báo hoặc chậm thông báo mà gây thiệt hại cho người được thi hành án thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, tuy nhiên, để xử lý các trường hợp này trong thực tiễn còn rất nhiều khó khăn.
Khoản 2 Điều 64 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã có quy định về hành vi “không cung cấp thông tin, không giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền thi hành án mà không có lý do chính đáng” với mức phạt từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, mức xử phạt trên vẫn là quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe đối với đối tượng bị xử phạt, mặt khác, việc xử lý đối với các trường hợp này còn rất hạn chế. Do đó, cần xem xét bổ sung các quy định pháp luật cụ thể về trách nhiệm phối hợp của người nhận cầm cố, thế chấp trong việc thi hành án và quy định các chế tài pháp lý hữu hiệu hơn để xử lý đối với các trường hợp người nhận cầm cố, thế chấp không phối hợp với cơ quan thi hành án dân sựu trong việc kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp để thi hành án khi tài sản đáp ứng đầy đủ các điều kiện để xử lý theo quy định của pháp luật.
Ba là, về trình tự, thủ tục xác định giá trị tài sản trước khi tiến hành kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp để thi hành án.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 73 Luật Thi hành án dân sự và điểm c khoản 1 Điều 43 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP thì chi phí cho việc chấp hành viên xác minh, xác định giá trị tài sản trước khi cưỡng chế để áp dụng biện pháp cưỡng chế tương ứng với nghĩa vụ phải thi hành án, chi phí cần thiết để áp dụng theo Điều 90 Luật Thi hành án dân sự sẽ do ngân sách nhà nước chi trả. Tuy nhiên, pháp luật thi hành án dân sự lại chưa có quy định hướng dẫn cụ thể trình tự, thủ tục thực hiện việc xác định giá trị tài sản đối với các trường hợp này, cụ thể như: Cách thức xác định giá trị tài sản? Việc xác định giá có cần phải ký hợp đồng với công ty thẩm định giá hay do chấp hành viên tự xác định? Việc xác định giá trị tài sản sẽ được dựa trên các yếu tố nào?... Do đó, cần có những hướng dẫn cụ thể hơn về vấn đề này.
Bốn là, về trình tự, thủ tục kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp.
Việc kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố thế chấp hiện nay đang thực hiện theo thủ tục chung được quy định tại Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, tài sản đang bị cầm cố, thế chấp có những đặc thù riêng, không giống với những tài sản thông thường khác, quá trình xử lý tài sản cũng sẽ có những điểm khác biệt nhưng pháp luật chưa có quy định hướng dẫn cụ thể, đặc biệt là hướng xử lý trong những trường hợp người nhận cầm cố, thế chấp không đồng thuận phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong việc kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp, dẫn đến các cơ quan thi hành án dân sự gặp nhiều khó khăn khi áp dụng pháp luật.
Do đó, cần tiếp tục có những quy định pháp luật hướng dẫn cụ thể hơn về trình tự, thủ tục kê biên, xử lý tài sản đang cầm cố, thế chấp để thi hành án, góp phần phát huy hiệu quả quy định pháp luật này trong thực tiễn.
ThS. NCS. Hoàng Thị Thanh Hoa
Khoa Đào tạo các chức danh thi hành án dân sự, Học viện Tư pháp
[1] Điều 309 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[2] Điều 317 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[3] Nghị quyết số 63/2022/QH15 ngày 16/6/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Về kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, Quốc hội thống nhất kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14 từ ngày 15/8/2022 đến hết ngày 31/12/2023.
[4] Trừ trường hợp xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo Điều 11 Nghị quyết số 42/2017/QH14.