Thứ năm 25/12/2025 11:23
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) là sự kiện chính trị trọng đại, được tiến hành theo trình tự chặt chẽ, bảo đảm dân chủ, bình đẳng và đúng pháp luật. Trong tiến trình ấy, Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND (Luật Bầu cử) quy định cụ thể các mốc thời gian thực hiện. Đây vừa là cơ sở bảo đảm tính logic, vừa là căn cứ cho sự minh bạch và thống nhất trong toàn bộ quy trình. Lịch trình pháp lý được xác định trên cơ sở ngày bầu cử đã được ấn định cho mỗi kỳ bầu cử.

Theo Nghị quyết số 199/2025/QH15[1], ngày bầu cử ĐBQH khóa XVI và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031 là ngày 15/3/2026. Đây là mốc khởi đầu, làm căn cứ pháp lý cho toàn bộ tiến trình bầu cử với các nhiệm vụ và mốc thời gian như sau:

1. Dự kiến cơ cấu, thành phần, phân bổ số lượng ĐBQH, đại biểu HĐND các cấp và thành lập Ủy ban bầu cử

Ngày 30/11/2025 là thời hạn chậm nhất trước 105 ngày bầu cử[2]: Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) dự kiến cơ cấu, thành phần ĐBQH khóa XVI, số lượng người của cơ quan, tổ chức ở Trung ương và địa phương được giới thiệu ứng cử ĐBQH khóa XVI; Thường trực HĐND cấp tỉnh, cấp xã, đặc khu dự kiến cơ cấu, thành phần, phân bổ số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND cùng cấp.

Đây cũng là hạn cuối để Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp thành lập Ủy ban bầu cử cùng cấp theo quy định tại Điều 22 Luật Bầu cử.

2. Hiệp thương lần thứ nhất

Ngày 10/12/2025 là thời hạn chậm nhất trước 95 ngày bầu cử[3]: Tổ chức hiệp thương lần thứ nhất để thỏa thuận cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị[4].

3. Điều chỉnh lần thứ nhất

Ngày 15/12/2025 là thời hạn chậm nhất trước 90 ngày bầu cử[5]: UBTVQH điều chỉnh lần thứ nhất cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở Trung ương và địa phương được giới thiệu ứng cử ĐBQH; Thường trực HĐND các cấp điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND cấp mình.

Sau khi UBTVQH, Thường trực HĐND điều chỉnh lần thứ nhất, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền giới thiệu người ứng cử, tự ứng cử.

4. Công bố số đơn vị bầu cử

Ngày 25/12/2025 là thời hạn chậm nhất trước 80 ngày bầu cử[6]: Hội đồng bầu cử quốc gia công bố số đơn vị bầu cử, danh sách các đơn vị bầu cử và số lượng ĐBQH được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử; Ủy ban bầu cử các cấp công bố số đơn vị bầu cử đại biểu HĐND cấp mình, danh sách các đơn vị bầu cử và số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử.

5. Thành lập Ban bầu cử

Ngày 04/01/2026 là thời hạn chậm nhất 70 ngày trước ngày bầu cử[7]: UBND cấp tỉnh thành lập Ban bầu cử ĐBQH; UBND các cấp thành lập Ban bầu cử đại biểu HĐND cùng cấp.

6. Thành lập các Tổ bầu cử và nộp hồ sơ ứng cử

Ngày 31/01/2026 là thời hạn chậm nhất trước 43 ngày bầu cử[8]: UBND cấp xã sau khi thống nhất với Thường trực HĐND và Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam cùng cấp quyết định thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử để thực hiện công tác bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND các cấp.

Ngày 01/02/2026 (chậm nhất 42 ngày trước ngày bầu cử[9]) là hạn cuối công dân Việt Nam nộp hồ sơ ứng cử.

7. Hiệp thương lần hai và niêm yết danh sách cử tri

Ngày 03/02/2026 là thời hạn chậm nhất trước 40 ngày bầu cử[10]: Tổ chức hiệp thương lần thứ hai để lập danh sách sơ bộ người ứng cử và gửi lấy ý kiến cử tri nơi cư trú.

Đây cũng là hạn cuối để niêm yết danh sách cử tri tại trụ sở UBND cấp xã và tại địa điểm công cộng của khu vực bỏ phiếu[11].

Trong thời hạn 30 ngày từ ngày niêm yết, công dân khiếu nại về danh sách cử tri; trong thời hạn 05 ngày từ khi nhận khiếu nại, cơ quan lập danh sách cử tri giải quyết khiếu nại.

8. Điều chỉnh lần thứ hai

Ngày 05/02/2026 là thời hạn chậm nhất trước 38 ngày bầu cử[12]: UBTVQH điều chỉnh lần thứ hai cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương và địa phương được giới thiệu ứng cử ĐBQH.

9. Tiến hành xong việc xác minh, trả lời các vụ việc cử tri nêu về người ứng cử

Ngày 08/02/2026 là thời hạn chậm nhất trước 35 ngày bầu cử[13]: Các cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý/giới thiệu người ứng cử, Ủy ban bầu cử tiến hành xong việc xác minh, trả lời các vụ việc cử tri nêu về người ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND.

10. Hiệp thương lần thứ ba

Ngày 20/02/2026 là thời hạn chậm nhất trước 23 ngày bầu cử[14]: Tổ chức hiệp thương lần thứ ba để lựa chọn, lập danh sách người đủ tiêu chuẩn ứng cử.

Ngày 22/02/2026 là thời hạn chậm nhất trước 21 ngày bầu cử[15]: Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp gửi biên bản hiệp thương lần 3 và danh sách người đủ tiêu chuẩn ứng cử đến Hội đồng bầu cử quốc gia và các cơ quan, tổ chức theo quy định. Căn cứ danh sách người đủ tiêu chuẩn ứng cử ĐBQH, Hội đồng bầu cử quốc gia gửi Ủy ban bầu cử ở tỉnh danh sách và hồ sơ người được giới thiệu về ứng cử tại địa phương

11. Lập và công bố danh sách chính thức người ứng cử, nhận tài liệu, phiếu bầu cử

Ngày 26/02/2026 là thời hạn chậm nhất trước 17 ngày bầu cử[16]: Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban bầu cử lập và công bố danh sách chính thức người ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND theo từng đơn vị bầu cử.

Đây cũng là hạn cuối Ủy ban bầu cử nhận tài liệu, phiếu bầu cử ĐBQH từ UBND cấp tỉnh và phân phối cho các Ban bầu cử ĐBQH; Ủy ban bầu cử nhận tài liệu, phiếu bầu cử đại biểu HĐND từ UBND cùng cấp và phân phối cho các Ban bầu cử[17].

12. Công bố danh sách và niêm yết danh sách chính thức người ứng cử

Ngày 27/02/2026 là thời hạn chậm nhất trước 16 ngày bầu cử[18]: Ủy ban bầu cử ở tỉnh công bố danh sách người ứng cử ĐBQH ở địa phương. Đây đồng thời cũng là hạn cuối để Tổ bầu cử niêm yết danh sách chính thức người ứng cử ĐBQH, đại biểu HĐND ở khu vực bỏ phiếu theo quy định tại Điều 59.

Sau khi công bố danh sách chính thức những người ứng cử, các ứng cử viên tiến hành vận động bầu cử. Thời hạn vận động bầu cử sẽ kết thúc trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ theo quy định tại Điều 64 Luật Bầu cử.

13. Nhận phiếu và ngừng xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị

Ngày 02/3/2026 là thời hạn chậm nhất trước 13 ngày bầu cử[19]: Ban bầu cử nhận và phân phối tài liệu, phiếu bầu cho các Tổ bầu cử.

Ngày 05/3/2026 là thời hạn chậm nhất trước 10 ngày bầu cử[20]: Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban bầu cử, Ban bầu cử ngừng xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về người ứng cử và danh sách người ứng cử.

14. Ngày bầu cử ĐBQH khóa XVI và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031 được ấn định là ngày 15/3/2026. Sau thời điểm đó, các mốc thời gian được tính chậm nhất sau ngày 15/3/2026.

15. Gửi biên bản kiểm phiếu, biên bản kết quả bầu cử và công bố danh sách trúng cử

Ngày 18/3/2026 là thời hạn chậm nhất sau 03 ngày bầu cử[21]: Tổ bầu cử gửi biên bản kết quả kiểm phiếu đến ban bầu cử tương ứng và UBND, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã.

Ngày 20/3/2026 là thời hạn chậm nhất sau 05 ngày bầu cử[22]: Ban bầu cử gửi biên bản xác định kết quả bầu cử ĐBQH đến Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban bầu cử tỉnh, Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp tỉnh; gửi biên bản xác định kết quả bầu cử đại biểu HĐND đến Ủy ban bầu cử cùng cấp, Thường trực HĐND, UBND, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp.

Ngày 22/3/2026 là thời hạn chậm nhất sau 07 ngày bầu cử[23]: Ủy ban bầu cử cấp tỉnh gửi biên bản xác định kết quả bầu cử ĐBQH ở tỉnh, thành phố đến Hội đồng bầu cử quốc gia, UBTVQH, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp tỉnh. Đây cũng là hạn cuối để bầu cử thêm, bầu cử lại theo quy định tại Điều 79, Điều 80 Luật Bầu cử.

Ngày 25/3/2026 là thời hạn chậm nhất sau 10 ngày bầu cử[24]: Hội đồng bầu cử quốc gia công bố kết quả bầu cử, danh sách trúng cử ĐBQH, Ủy ban bầu cử công bố kết quả bầu cử, danh sách trúng cử đại biểu HĐND cấp mình. Đây cũng là hạn cuối để Hội đồng bầu cử quốc gia và Ủy ban bầu cử các cấp giải quyết khiếu nại kết quả bầu cử ĐBQH, đại biểu HĐND[25].

Mỗi mốc thời gian gắn với một công việc then chốt, có tác động trực tiếp đến chất lượng đại biểu được bầu và niềm tin của Nhân dân đối với cơ chế dân chủ đại diện. Có thể nói, quy định chặt chẽ về các mốc chậm nhất là “lịch trình pháp lý” cho tiến trình bầu cử. Đây là cơ sở để các tổ chức phụ trách bầu cử chủ động triển khai công việc, phòng ngừa sự chậm trễ, bảo đảm tính đồng bộ và công bằng trong cả nước.

Hải Lam


  1. Nghị quyết ngày 21/5/2025 của Quốc hội về việc rút ngắn nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026; ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031.

  2. Khoản 1 Điều 8 và Điều 9 Luật Bầu cử.

  3. Khoản 1 Điều 38, khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 50 Luật Bầu cử.

  4. Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức hội nghị ở Trung ương, Ban Thường trực Ủy banMTTQ Việt Nam tỉnh tổ chức hội nghị ở tỉnh để thực hiện đối với bầu cử ĐBQH. Ban Thường trực Ủy ban MTTQĐoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức hội nghị ở Trung ương, Ban Thường trực Ủy ban

  5. Điều 40, Điều 51 Luật Bầu cử.

  6. Khoản 2, khoản 3 Điều 10 Luật Bầu cử.

  7. Khoản 1, khoản 2 Điều 24 Luật Bầu cử.

  8. Khoản 1 Điều 25 Luật Bầu cử.

  9. Khoản 1 Điều 35, Điều 36 Luật Bầu cử.

  10. Khoản 1 Điều 43, khoản 1 Điều 44, khoản 1 Điều 53 Luật Bầu cử.

  11. Điều 32 Luật Bầu cử.

  12. Điều 47 Luật Bầu cử.

  13. Khoản 4 Điều 46 và khoản 4 Điều 55 Luật Bầu cử.

  14. Khoản 1 Điều 48, khoản 1 Điều 49 và khoản 1 Điều 56 Luật Bầu cử.

  15. Khoản 1, khoản 2 Điều 57 và khoản 1, khoản 2 Điều 58 Luật Bầu cử.

  16. Khoản 1, khoản 2 Điều 58 và khoản 4 Điều 57 Luật Bầu cử.

  17. Điểm g khoản 1 và điểm h khoản 2 Điều 23 Luật Bầu cử.

  18. Khoản 7 Điều 57 Luật Bầu cử.

  19. Điểm d khoản 3 Điều 24 Luật Bầu cử.

  20. Khoản 2 Điều 61 Luật Bầu cử.

  21. Khoản 3 Điều 76 Luật Bầu cử.

  22. Khoản 3, khoản 4 Điều 77 Luật Bầu cử.

  23. Khoản 3 Điều 83 Luật Bầu cử.

  24. Khoản 1, khoản 2 Điều 86 Luật Bầu cử.

  25. khoản 1, khoản 2 Điều 87 Luật Bầu cử.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Công tác xây dựng Đảng trong Đảng bộ Bộ Tư pháp giai đoạn 2015 - 2025: Thành tựu, bài học kinh nghiệm và định hướng đến năm 2030

Công tác xây dựng Đảng trong Đảng bộ Bộ Tư pháp giai đoạn 2015 - 2025: Thành tựu, bài học kinh nghiệm và định hướng đến năm 2030

Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới với yêu cầu cải cách toàn diện, đẩy mạnh hội nhập quốc tế và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc nâng cao vai trò lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng đối với hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp có ý nghĩa chiến lược và cấp thiết.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Sau hơn 17 năm thi hành, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, thực tiễn đời sống xã hội đang đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với hoạt động TTTP về dân sự. Do đó, việc tổng kết thực tiễn thực hiện Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 là cần thiết, từ đó, đánh giá những điểm còn hạn chế so với yêu cầu thực tiễn, làm cơ sở đề xuất hoàn thiện pháp luật TTTP về dân sự trong bối cảnh mới.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.

Theo dõi chúng tôi trên: