1. Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp luật
1.1. Chức năng chủ trì về lập pháp
Trong vai trò là cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp đã tham mưu ban hành nhiều chủ trương lớn của Đảng về xây dựng thể chế, trong đó, có nhiều văn kiện nền tảng như: Chỉ thị số 57/CT-TW ngày 08/8/1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII về hợp tác với nước ngoài về pháp luật và cải cách hành chính; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp và pháp luật; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW); Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới (Nghị quyết số 66-NQ/TW)[1].
Thực tiễn, Bộ Tư pháp đã chủ trì và phối hợp xây dựng, trình ban hành hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật mỗi năm. Không chỉ thực hiện vai trò cơ quan chủ trì soạn thảo, Bộ Tư pháp còn là đầu mối thẩm định các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Chính phủ trình, cùng các nghị định của Chính phủ và quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Các ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp luôn được đánh giá cao về tính chuyên môn, góp phần bảo đảm chất lượng, tính hợp hiến, hợp pháp và khả thi của văn bản, đồng thời, hỗ trợ cơ quan soạn thảo hoàn thiện chính sách, pháp luật kịp thời, sát thực tiễn.
Đặc biệt, Bộ Tư pháp đã trực tiếp tham mưu xây dựng nhiều đạo luật có ý nghĩa chiến lược, đóng vai trò “xương sống” trong hệ thống pháp luật, như: Hiến pháp (năm 1992, năm 2013, sửa đổi, bổ sung năm 2025); Bộ luật Dân sự (các năm 1995, 2005, 2015); Bộ luật Hình sự (các năm 1985, 1999, 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, năm 2025)); Luật Hôn nhân và Gia đình (các năm 1959, 1986, 2000, 2014); Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020, năm 2025); Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (các năm 1996, 2004, 2008, 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020 và năm 2025); Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012[2]…
1.2. Bảo đảm chất lượng, tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất của hệ thống pháp luật
Bộ Tư pháp đã tiên phong trong việc hiện đại hóa quy trình xây dựng pháp luật thông qua việc ứng dụng công nghệ số và cải cách kỹ thuật lập pháp. Năm 2024 - 2025, Bộ Tư pháp đã triển khai nhiều cuộc họp thẩm định về pháp điển, xây dựng Cổng pháp điển điện tử và phần mềm hỗ trợ pháp điển quy phạm pháp luật, giúp hệ thống hóa, tra cứu dễ dàng và minh bạch hơn.
Nghị định số 32/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật (Nghị định số 32/2020/NĐ-CP) quy định nhiệm vụ của Bộ Tư pháp trong chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra công tác theo dõi thi hành pháp luật tại các bộ, ngành và địa phương. Điều này lập cơ chế giám sát liên tục, bảo đảm chất lượng và tính thống nhất hệ thống pháp luật.
Cùng với đó, Bộ Tư pháp đã tổ chức nhiều lớp tập huấn, ban hành các tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ về kỹ thuật lập pháp và thẩm định văn bản nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế tại các bộ, ngành, địa phương. Qua đó, từng bước xây dựng quy trình lập pháp chuyên nghiệp, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, tạo thuận lợi cho việc tổ chức thi hành trên thực tế.
1.3. Vai trò điều phối liên ngành trong cải cách thể chế và định hướng chính sách
Là cơ quan được giao vai trò điều phối trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp đã chủ động tham gia sâu vào việc triển khai các nghị quyết cải cách thể chế, trong đó có Nghị quyết số 27-NQ/TW và Nghị quyết số 66-NQ/TW.
Trên thực tế, Bộ Tư pháp đã góp phần định hình một số nguyên tắc pháp lý quan trọng trong quá trình hoàn thiện thể chế, như: bảo đảm quyền con người, quyền công dân; công khai, minh bạch trong ban hành chính sách; xây dựng Chính phủ liêm chính, phục vụ; bảo đảm trách nhiệm giải trình và kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong vai trò điều phối liên ngành, Bộ Tư pháp đã khẳng định vị thế là “nhạc trưởng” trong kiến tạo thể chế phát triển, đồng thời, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân trong các chính sách, pháp luật mới.
2. Vai trò của Bộ Tư pháp trong tổ chức thi hành pháp luật gắn với thực tiễn giáo dục
2.1. Công tác theo dõi và đánh giá thi hành pháp luật
Thi hành pháp luật là giai đoạn thiết yếu, bảo đảm các quy phạm pháp luật đã được ban hành thực sự đi vào đời sống xã hội. Trong vai trò là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ tổ chức thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó, nổi bật là công tác theo dõi thi hành pháp luật. Theo Nghị định số 32/2020/NĐ-CP, Bộ Tư pháp đã thiết lập hệ thống theo dõi thi hành pháp luật tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và hơn 20 bộ, ngành (trước thời điểm thực hiện sắp xếp, tinh gọn bộ máy trong hệ thống chính trị). Thông qua cơ chế này, tình hình thực thi pháp luật được phản ánh kịp thời, giúp phát hiện bất cập, “lỗ hổng” trong quy định pháp luật hoặc trên thực tế áp dụng, từ đó, kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới phù hợp hơn với tình hình thực tiễn. Trong lĩnh vực giáo dục, Bộ Tư pháp tích cực phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện kiểm tra, rà soát và đánh giá hiệu quả thi hành các văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức, quản lý và hoạt động giáo dục. Qua đó, nhiều văn bản bất cập được kiến nghị sửa đổi, giúp tạo hành lang pháp lý minh bạch và thống nhất cho các cơ sở giáo dục.
Đồng thời, công tác hệ thống hóa và pháp điển văn bản quy phạm pháp luật là trụ cột quan trọng. Bộ Tư pháp thường xuyên tổ chức rà soát, cập nhật và chuẩn hóa dữ liệu văn bản pháp luật, bảo đảm dễ tiếp cận, dễ tra cứu, đặc biệt, với những đối tượng chịu tác động trực tiếp như cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên và học sinh.
Đặc biệt, công tác thi hành án dân sự, hành chính, đóng vai trò bảo đảm hiệu lực của quyết định tư pháp. Bộ Tư pháp đã xây dựng hệ thống cơ quan thi hành án dân sự đồng bộ từ trung ương đến địa phương, với đội ngũ công chức có chuyên môn vững vàng, góp phần đưa các phán quyết của Tòa án, trọng tài và cơ quan có thẩm quyền được thi hành trên thực tế. Điều này không chỉ bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật mà còn củng cố lòng tin của người dân vào nền tư pháp quốc gia[3].
2.2. Phát huy hiệu quả hoạt động pháp chế trong các bộ, ngành
Tăng cường tổ chức pháp chế là yếu tố quan trọng, bảo đảm tính cương quyết và sự thống nhất trong xây dựng và thi hành pháp luật. Theo đó, Bộ Tư pháp đã chủ động phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 02/2025/TT‑BTP ngày 31/3/2025 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn vị trí việc làm về công tác pháp chế trong cơ quan, tổ chức hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập (Thông tư số 02/2025/TT‑BTP), trong đó, xác định rõ vị trí việc làm, mô tả công tác và khung năng lực đối với chuyên viên pháp chế tại các bộ, ngành và đơn vị sự nghiệp, gồm trường đại học, bệnh viện, đơn vị kinh doanh công lập…
Thông tư số 02/2025/TT‑BTP quy định các vị trí như pháp chế viên cao cấp, pháp chế viên chính, pháp chế viên và chuyên viên pháp chế, với các tiêu chí nghiêm ngặt về năng lực chuyên môn, kỹ năng xử lý văn bản, kiến thức pháp lý và nghiệp vụ công tác pháp chế. Điều này đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc chuyên nghiệp hóa đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế, góp phần bảo đảm tính xuyên suốt, ổn định trong quản lý nhà nước và kiểm soát hoạt động pháp luật ở cấp cơ sở và đơn vị sự nghiệp.
Đặc biệt, tại các cơ sở giáo dục đại học, việc củng cố tổ chức pháp chế nội bộ giúp nâng cao khả năng tự chủ, tự chịu trách nhiệm pháp lý của các trường trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế tự chủ đại học theo quy định của pháp luật. Bộ Tư pháp đã có nhiều hướng dẫn chuyên môn, hỗ trợ nghiệp vụ cho đội ngũ này thông qua các lớp tập huấn, hội nghị, hội thảo chuyên đề.
2.3. Phổ biến, giáo dục pháp luật và xây dựng xã hội pháp quyền
Phổ biến, giáo dục pháp luật là công cụ hữu hiệu nhằm hình thành văn hóa tuân thủ, thượng tôn pháp luật trong cộng đồng. Với vai trò là cơ quan chủ trì toàn quốc về công tác này, Bộ Tư pháp đã triển khai các hoạt động phong phú, phù hợp với từng nhóm đối tượng, trong đó có học sinh, sinh viên, giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Các chương trình như “Ngày Pháp luật Việt Nam 9/11”, “Pháp luật học đường”, “Tìm hiểu pháp luật trực tuyến”, “Chỉ số tiếp cận pháp luật cấp xã”… được duy trì và nhân rộng trên cả nước. Những hoạt động này không chỉ nâng cao hiểu biết pháp luật, mà còn giúp hình thành hành vi ứng xử có trách nhiệm, nhất là trong giới trẻ - lực lượng “nòng cốt” của xã hội tương lai.
Đặc biệt, theo Quyết định số 766/QĐ‑TTg ngày 15/4/2025 của Chính phủ phê duyệt Đề án “Chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2025 - 2030” với mục tiêu bảo đảm từ 70 - 90% người dân có thể tiếp cận các hoạt động pháp luật qua nền tảng số, đồng thời, nâng cao chất lượng tuyên truyền pháp luật bằng công nghệ số[4]. Tại cấp địa phương, một số Sở Tư pháp đã triển khai thí điểm các nền tảng pháp luật học đường, diễn đàn pháp lý trực tuyến, cổng hỏi - đáp pháp luật, cùng với các công cụ hỗ trợ trí tuệ nhân tạo (AI) để thúc đẩy việc truy cập và tương tác với pháp luật. Ví dụ, tại Thành phố Hồ Chí Minh, mô hình “Sách nói pháp luật” dành riêng cho người khuyết tật đã tạo dấu ấn tích cực về tính mở và toàn diện của hệ thống phổ biến, giáo dục pháp luật[5].
Ngoài ra, Bộ Tư pháp đã tích cực phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa nội dung pháp luật vào chương trình phổ thông và đại học, đồng thời, tổ chức các hoạt động ngoại khóa như mô phỏng phiên tòa, cuộc thi tìm hiểu pháp luật… Những nỗ lực này đã góp phần tăng cường kỹ năng pháp lý, ý thức công dân và trách nhiệm xã hội cho thế hệ trẻ.
3. Vai trò của Bộ Tư pháp trong đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực pháp luật
3.1. Nâng cao chất lượng hệ thống đào tạo pháp luật
Tại Hội nghị tổng kết công tác đào tạo, bồi dưỡng giai đoạn 2020 - 2024, Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã khẳng định quan điểm “xác định công tác cán bộ làm then chốt”, đồng thời, xác định phát triển nhân lực tư pháp phải gắn với yêu cầu đổi mới toàn diện hệ thống chính trị, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong giai đoạn này, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo triển khai đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu và phân nhóm đối tượng, gồm: cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp; đội ngũ cán bộ làm công tác pháp luật; các chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp; học sinh, sinh viên trong hệ thống đào tạo nghề và trung cấp luật. Cụ thể:
- Về đào tạo cán bộ, công chức, viên chức: Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Tư pháp đã tổ chức 94 lớp bồi dưỡng cho hơn 9.300 lượt người học về chuyên môn nghiệp vụ, quốc phòng - an ninh, ngoại ngữ và vị trí việc làm. Đồng thời, cử gần 1.650 lượt công chức tham gia các chương trình đào tạo trong và ngoài nước, góp phần chuẩn hóa đội ngũ về năng lực, kỹ năng và đạo đức công vụ.
- Về đào tạo đội ngũ cán bộ pháp luật: Trường Đại học Luật Hà Nội đã đào tạo hơn 15.000 sinh viên, học viên và nghiên cứu sinh, đạt 85% chỉ tiêu của Đề án phát triển giai đoạn 2022 - 2025. Trường cũng đẩy mạnh kiểm định chất lượng và cải tiến chương trình đào tạo, hướng tới tiếp cận tiêu chuẩn quốc tế.
- Về đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp: Học viện Tư pháp tiếp tục khẳng định vị thế là trung tâm đào tạo chuyên sâu trong lĩnh vực tư pháp và bổ trợ tư pháp. Giai đoạn 2020 - 2024, Học viện Tư pháp đã đào tạo gần 19.000 học viên, cấp chứng chỉ/giấy chứng nhận cho gần 14.000 người học và tổ chức các khóa bồi dưỡng cho hơn 23.000 học viên trên cả nước.
- Về giáo dục nghề nghiệp: các trường Cao đẳng Luật miền Bắc, miền Trung và miền Nam đã tuyển sinh hơn 2.400 học viên, đồng thời, tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho hơn 6.700 học viên tại các địa phương, góp phần lan tỏa đào tạo pháp luật đến vùng sâu, vùng xa, bảo đảm tính bao trùm và công bằng[6].
3.2. Phát triển đào tạo nghề luật trong bối cảnh hội nhập
Bộ Tư pháp tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo pháp luật với các đối tác như Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP)... Thông qua các chương trình học bổng, trao đổi chuyên gia và xây dựng giáo trình tiêu chuẩn, hoạt động đào tạo ngày càng được quốc tế hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên và học viên tiếp cận tri thức pháp lý toàn cầu.
Đồng thời, Bộ Tư pháp đã chú trọng phát triển mạng lưới tổ chức hành nghề luật như luật sư, công chứng viên, giám định viên tư pháp… từ trung ương đến địa phương, bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực bổ trợ cho hệ thống pháp luật. Đây là cơ sở quan trọng để tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm quyền tiếp cận công lý cho người dân, doanh nghiệp, cũng như nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
3.3. Đẩy mạnh hợp tác liên ngành trong giáo dục pháp luật
Một trong những điểm nhấn trong thời gian gần đây là sự phối hợp hiệu quả giữa Bộ Tư pháp và Bộ Giáo dục và Đào tạo trong công tác giáo dục pháp luật học đường. Việc lồng ghép nội dung pháp luật trong chương trình phổ thông, hướng dẫn tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, mô phỏng phiên tòa tại trường đại học và tập huấn cho cán bộ pháp chế trong các cơ sở giáo dục đã tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng.
Sự phối hợp này không chỉ giúp hình thành ý thức thượng tôn pháp luật từ sớm cho học sinh, sinh viên mà còn tạo tiền đề quan trọng cho phát triển thế hệ công dân mới có trình độ hiểu biết pháp lý, trách nhiệm xã hội và năng lực tham gia đời sống chính trị - pháp lý của đất nước trong tương lai.
![]() |
| Ảnh do Vụ Pháp chế, Bộ Giáo dục và Đào tạo cung cấp. |
4. Một số tồn tại và giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới
4.1. Một số tồn tại, thách thức
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, những ngành Tư pháp cũng phải đối mặt với những tồn tại và thách thức nhất định.
Trước hết, tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy định pháp luật chưa được khắc phục triệt để, gây khó khăn cho quá trình áp dụng trong thực tiễn và ảnh hưởng đến tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Bên cạnh đó, công tác tổ chức thi hành pháp luật thiếu sự đồng bộ giữa trung ương và địa phương, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động lập pháp, theo dõi và đánh giá thi hành pháp luật còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu số hóa và hiện đại hóa quản trị công. Nguồn nhân lực làm công tác pháp luật, đặc biệt, ở cấp cơ sở, còn thiếu về số lượng và chưa đồng đều về chất lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu trong bối cảnh mới. Đặc biệt, trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu, rộng và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, những yêu cầu pháp lý mới liên quan đến chuyển đổi số, bảo vệ dữ liệu cá nhân, thương mại điện tử, AI... đặt ra áp lực lớn, đòi hỏi ngành Tư pháp phải tiếp tục nâng cao năng lực, xây dựng thể chế và thể hiện rõ vai trò định hướng trong việc tạo lập khuôn khổ pháp lý phù hợp với thời đại.
4.2. Một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới
Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới với yêu cầu cao về hoàn thiện thể chế, quản trị nhà nước hiện đại và hội nhập quốc tế sâu, rộng, việc tiếp tục khẳng định và nâng tầm vai trò của Bộ Tư pháp là yêu cầu tất yếu. Để đạt được điều này, Bộ Tư pháp cần phải:
Thứ nhất, xác định rõ Bộ Tư pháp tiếp tục giữ vai trò trung tâm trong kiến tạo thể chế, thông qua việc tăng cường chất lượng công tác xây dựng, thẩm định, rà soát và hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật. Điều này đòi hỏi cần phải đẩy mạnh cải tiến kỹ thuật lập pháp theo hướng hiện đại hóa, số hóa toàn bộ quy trình lập pháp, từ khâu soạn thảo, thẩm định đến công bố và pháp điển. Việc hoàn thiện Cổng Pháp luật quốc gia và phát triển các công cụ công nghệ số phục vụ xây dựng pháp luật sẽ giúp bảo đảm tính minh bạch, thống nhất và khả thi của hệ thống pháp luật quốc gia.
Thứ hai, nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, hướng tới xây dựng hệ thống theo dõi, đánh giá thi hành pháp luật có tính kết nối liên ngành từ trung ương đến địa phương. Việc ứng dụng AI, dữ liệu lớn vào quá trình quản lý thi hành pháp luật sẽ góp phần phát hiện sớm các bất cập trong thực tiễn áp dụng, từ đó, điều chỉnh chính sách kịp thời, hiệu quả hơn. Đồng thời, tăng cường hoạt động kiểm tra và xử lý nghiêm minh các vi phạm, bảo đảm kỷ cương pháp luật trong quản lý nhà nước và đời sống xã hội.
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực pháp luật chất lượng cao tiếp tục là một trụ cột chiến lược. Bộ Tư pháp cần thúc đẩy chuẩn hóa đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế tại các bộ, ngành, địa phương và đơn vị sự nghiệp, đặc biệt, ở cấp cơ sở - nơi còn tồn tại nhiều bất cập về trình độ và kỹ năng. Việc triển khai đồng bộ khung năng lực pháp chế theo quy định mới[7] cần được kết hợp với đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, đồng thời, mở rộng hợp tác quốc tế để xây dựng chương trình đào tạo nghề luật theo chuẩn khu vực và toàn cầu.
Thứ tư, cần đẩy mạnh và đổi mới toàn diện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật theo hướng ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số. Việc triển khai Đề án chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2025 - 2030 cần được cụ thể hóa bằng các sản phẩm truyền thông sáng tạo như podcast pháp luật, nền tảng mạng xã hội, diễn đàn hỏi - đáp pháp luật trực tuyến và thư viện pháp luật học đường. Đặc biệt, việc chú trọng phổ biến kiến thức pháp luật về không gian số, bảo vệ dữ liệu cá nhân, quyền số… sẽ tạo nền tảng, hình thành công dân pháp lý trong kỷ nguyên số, bắt đầu từ đối tượng học sinh, sinh viên.
Trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, việc tăng cường hợp tác liên ngành và quốc tế là hướng đi không thể thiếu để phát triển toàn diện vai trò của Bộ Tư pháp. Vì thế, Bộ Tư pháp cần đẩy mạnh phối hợp với các bộ, ngành như Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Khoa học và Công nghệ trong các chương trình đào tạo, phổ biến pháp luật và chuyển đổi số. Đồng thời, việc mở rộng quan hệ hợp tác với các đối tác chiến lược như EU, UNDP, Nhật Bản, Hàn Quốc… sẽ tạo điều kiện để Bộ Tư pháp tiếp cận kinh nghiệm quốc tế trong quản trị công và xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện đại. Tham gia sâu vào các diễn đàn pháp lý khu vực và toàn cầu không chỉ góp phần nâng cao vị thế của hệ thống pháp luật Việt Nam, mà còn khẳng định vai trò tiên phong của Bộ Tư pháp trong công cuộc cải cách thể chế và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả.
Thời gian tới, việc thúc đẩy mối liên kết chặt chẽ giữa ngành Tư pháp và ngành Giáo dục cần được xác định là một trong những giải pháp chiến lược mang tính nền tảng. Thông qua đó, hình thành thế hệ công dân không chỉ có kiến thức pháp luật vững chắc, mà còn hình thành văn hóa tuân thủ, tôn trọng, có ý thức thượng tôn pháp luật, trách nhiệm xã hội và năng lực tham gia tích cực vào đời sống chính trị - pháp lý của đất nước. Bên cạnh đó, việc hoàn thiện cơ chế phối hợp liên ngành, tăng cường ứng dụng công nghệ, mở rộng hợp tác quốc tế và huy động hiệu quả các nguồn lực xã hội là những định hướng cần tiếp tục được ưu tiên triển khai. Những giải pháp này sẽ góp phần củng cố nền tảng pháp lý vững chắc, hướng tới xây dựng xã hội hiện đại, dân chủ, công bằng, văn minh, thực sự vận hành theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.
Vụ Pháp chế, Bộ Giáo dục và Đào tạo
[1]. Hoàng Trung, “Khẳng định vai trò, chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong công tác xây dựng, thi hành pháp luật”, https://danchuphapluat.vn/khang-dinh-vai-tro-chuc-nang-nhiem-vu-trach-nhiem-cua-bo-tu-phap-trong-cong-tac-xay-dung-thi-hanh-phap-luat-5250.html.
[2]. TS. Nguyễn Hải Ninh, “Vai trò, định hướng phát triển của Bộ, ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu của đất nước trong kỷ nguyên mới”, https://www.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/hoat-dong-cua-lanh-dao-bo.aspx?ItemID=6812.
[3]. Hoàng Trung, tlđd.
[4]. Khánh Linh, “Chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2025 - 2030”, https://baochinhphu.vn/chuyen-doi-so-trong-cong-tac-pho-bien-giao-duc-phap-luat-giai-doan-2025-2030-102250415174224272.htm.
[5]. Vũ Cẩm, “Chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật: Cần đảm bảo tính khả thi, đi vào cuộc sống”, https://www.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/hoat-dong-cua-cac-don-vi-thuoc-bo.aspx?ItemID=5087.
[6]. Anh Thư, “Thúc đẩy vai trò, sức mạnh của công tác đào tạo, bồi dưỡng trong xây dựng, phát triển Bộ, ngành Tư pháp”, https://moj.gov.vn/ddt/tintuc/Pages/Hoat-Dong-Cua-BCH. aspx?ItemID=425.
[7]. Thông tư số 02/2025/TT-BTP ngày 31/3/2025 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn vị trí việc làm về công tác pháp chế trong cơ quan, tổ chức hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật ấn phẩm đặc biệt “Ngành Tư pháp - Tự hào truyền thống, vững bước tương lai”)