Từ khóa: quyền tham gia vào đời sống văn hóa; dân tộc thiểu số; Gia Lai.
Abstract: Ensuring the right to participate in cultural life of ethnic minorities is an urgent requirement in the process of building a comprehensive and sustainable society in Vietnam today. Based on theoretical analysis and practical survey in Gia Lai province, where 24.76% of the population are ethnic minorities from 44 groups, the article evaluates the implementation of this right according to the analytical framework of General Comment No. 21 of the United Nations, including three criteria: availability, accessibility and acceptability. The results show that there are still limitations in grassroots cultural institutions, regional differences and the level of participation is still formal. From there, the article proposes solutions to increase efficiency and ensure the right to participate in cultural life of ethnic minorities in Gia Lai province.
Keywords: Right to participate in cultural life; ethnic minorities; Gia Lai.
Đặt vấn đề
Quyền tham gia vào đời sống văn hóa là quyền cơ bản của con người, được thừa nhận rộng rãi trong các điều ước quốc tế về quyền con người. Theo đó, đoạn 1a Điều 15 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 quy định “mọi người đều có quyền tham gia vào đời sống văn hóa”[1], khẳng định đây là quyền phổ quát, áp dụng công bằng bình đẳng với mọi chủ thể mà không phân biệt về thành phần dân tộc. Nhiều văn kiện quốc tế đã ghi nhận quyền văn hóa của người dân tộc thiểu số, như Điều 27 Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945; Điều 27 Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966; Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về quyền của các dân tộc bản địa năm 2007 nhấn mạnh: “Các dân tộc bản địa có quyền thực hành và tái tạo những truyền thống và phong tục văn hóa của họ”[2] (Điều 11), đồng thời, có quyền tự mình xác định “thuộc về một cộng đồng bản địa hay quốc gia, theo các truyền thống và phong tục của cộng đồng hay quốc gia đó”[3] (Điều 9). Ngoài ra, nhấn mạnh đến chủ thể trẻ em dân tộc thiểu số, Điều 30 Công ước về quyền trẻ em năm 1989 quy định: “… trẻ em thuộc một nhóm thiểu số đó hoặc trẻ em bản địa sẽ không bị khước từ quyền được hưởng nền văn hóa của mình”[4]. Nhóm các “quyền văn hóa luôn có tính đặc thù”[5] gắn với yếu tố dân tộc, do đó, đối với người thuộc nhóm dân tộc thiểu số, quyền tham gia vào đời sống văn hóa mang ý nghĩa quan trọng, bởi đây không chỉ là sự hưởng thụ thụ động, mà còn gắn với quyền giữ gìn, duy trì và phát triển các biểu đạt văn hóa riêng biệt của dân tộc mình.
Tại Việt Nam, tỉnh Gia Lai mới được hình thành trên cơ sở sáp nhập tỉnh Gia Lai (Tây Gia Lai) và tỉnh Bình Định (Đông Gia Lai) theo Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/06/2025 của Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, với quy mô dân số trên 3,2 triệu người, trong đó, người dân tộc thiểu số chiếm khoảng 24,76% dân số toàn tỉnh (Tây Gia Lai có 44 thành phần dân tộc thiểu số, Đông Gia Lai có 39 thành phần dân tộc thiểu số)[6]. Sự hợp nhất này tạo nên bức tranh văn hóa đa dạng hơn, kết hợp giữa không gian văn hóa của dân tộc Tây Nguyên và vùng duyên hải miền Trung. Thúc đẩy quyền tham gia vào đời sống văn hóa của người dân tộc thiểu số là phương thức để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, việc vận động đồng bào các dân tộc giữ gìn và phát huy bản sắc, giá trị di sản văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc, góp phần tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng[7]. Do đó, việc phân tích thực tiễn triển khai tại địa bàn có tính đặc thù về yếu tố dân tộc và sự đa dạng văn hóa như tỉnh Gia Lai có ý nghĩa quan trọng trong đánh giá chính sách về “quyền con người gắn với phát triển bền vững về văn hóa - một xu hướng mới đối với quyền của người dân tộc thiểu số”[8], từ đó, đề xuất các giải pháp thúc đẩy quyền tham gia vào đời sống văn hóa của người dân tộc thiểu số ở Gia Lai trong thời gian tới.
1. Chính sách, pháp luật về quyền tham gia vào đời sống văn hóa của người dân tộc thiểu số
Hiện nay, tại Việt Nam, quyền tham gia vào đời sống văn hóa được ghi nhận tại Điều 41 Hiến pháp năm 2013, sửa đổi, bổ sung năm 2025 (Hiến pháp năm 2013): “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa”. Đối với người dân tộc thiểu số, khoản 4 Điều 5 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”. Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc (sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định số 127/2024/NĐ-CP ngày 10/10/2024 của Chính phủ) khẳng định: “Đồng bào dân tộc thiểu số được ưu đãi, hưởng thụ văn hóa; hỗ trợ xây dựng, khai thác sử dụng có hiệu quả hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số”.
Pháp luật chuyên ngành có nhiều điều khoản thừa nhận về các khía cạnh của quyền tham gia vào đời sống văn hóa của người dân tộc thiểu số. Luật Di sản văn hóa năm 2024 công nhận vai trò chủ thể văn hóa của cộng đồng trong bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể: “Chủ thể di sản văn hóa phi vật thể là cộng đồng, nhóm người hoặc cá nhân sáng tạo, kế thừa, sở hữu, nắm giữ, thực hành, trao truyền và tái tạo di sản văn hóa phi vật thể” (khoản 14 Điều 3), đồng thời, yêu cầu ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước cho các hoạt động “bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, biên giới, hải đảo, đặc biệt ưu tiên bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa các dân tộc thiểu số rất ít người và dân tộc thiểu số có nguy cơ mai một giá trị văn hóa tộc người” (điểm c khoản 3 Điều 7). Nghị định số 215/2025/NĐ-CP ngày 04/8/2015 của Chính phủ quy định các biện pháp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, di sản văn hóa dưới nước, di sản văn hóa phi vật thể trong các danh sách của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) và danh mục quốc gia về di sản văn hóa phi vật thể và chính sách đối với nghệ nhân, chủ thể di sản văn hóa phi vật thể.
Khoản 2 Điều 18 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc, phát huy truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc mình” và được bình đẳng về cơ hội tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với độ tuổi của mình… Trong lĩnh vực giáo dục, khoản 2 Điều 11 Luật Giáo dục năm 2019 quy định: “2. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình theo quy định của Chính phủ”…
Thực tiễn cho thấy, người dân tộc thiểu số được xác định là nhóm người dễ bị tổn thương, nghĩa là những người “có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con người, và bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác”[9]. Do đó, rất nhiều chính sách được Nhà nước ban hành nhằm bảo đảm và thúc đẩy quyền tham gia vào đời sống văn hóa của người dân tộc thiểu số ở Việt Nam như Quyết định số 1909/QĐ-TTg ngày 12/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030; Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030; Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030; Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030; giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025, đều nhấn mạnh nhiệm vụ bảo tồn và phát triển các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc.
Như vậy, hệ thống pháp luật Việt Nam khá tương thích với pháp luật nhân quyền quốc tế về quyền tham gia vào đời sống văn hóa, thể hiện ở các khía cạnh ghi nhận về quyền của mọi người (trong đó có quyền của người dân tộc thiểu số) được: (i) thụ hưởng và tiếp cận các giá trị văn hóa (thông qua bảo tồn, duy trì các giá trị di sản văn hóa, chính sách bảo đảm ưu tiên xây dựng thiết chế văn hóa gắn với dân tộc thiểu số); (ii) tham gia và đóng góp vào đời sống văn hóa (thông qua các quy định về quyền được lựa chọn các giá trị văn hóa dân tộc như tiếng nói, chữ viết, các lễ hội văn hóa và bảo đảm việc tham gia trong quá trình xây dựng chính sách liên quan đến dân tộc thiểu số cũng như chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân người dân tộc thiểu số…).
Pháp luật Việt Nam không chỉ là sự thể hiện cam kết quốc tế về bảo đảm quyền, mà còn thể hiện quan điểm coi việc bảo đảm quyền tham gia vào đời sống văn hóa của người dân tộc thiểu số là một phần không thể tách rời trong chiến lược phát triển bền vững, phát huy bản sắc và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vấn đề này thể hiện rõ quan điểm “quyền của các dân tộc thiểu số không thể thoát ly bản sắc và truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc thiểu số”[10]. Tuy vậy, hệ thống pháp luật hiện hành còn tồn tại một số bất cập nhất định, khiến quá trình triển khai trên thực tế chưa đạt hiệu quả như mong đợi.
2. Thực tiễn bảo đảm quyền tham gia vào đời sống văn hóa của người dân tộc thiểu số tại tỉnh Gia Lai
Nghiên cứu đánh giá thực tiễn bảo đảm quyền theo 03 tiêu chí cơ bản nhất về các điều kiện cần thiết nhằm hiện thực hóa đầy đủ quyền được tham gia vào đời sống văn hóa trên cơ sở bình đẳng và không phân biệt đối xử được Liên hợp quốc khuyến nghị tại Bình luận chung số 21, gồm: (i) tính khả dụng; (ii) khả năng tiếp cận; (iii) tính chấp nhận được. Bởi lẽ, đây là những tiêu chí phản ánh trực tiếp và rõ nét nhất khả năng người dân tộc thiểu số có thể tham gia đời sống văn hóa trong thực tiễn. Trong khi đó, các yếu tố như sự thích ứng và phù hợp thường có tính khái quát hơn, khó lượng hóa và hiện nay còn thiếu dữ liệu thực chứng đầy đủ tại tỉnh Gia Lai. Vì vậy, việc tập trung vào ba yếu tố trên, giúp phân tích vừa sát thực tiễn, vừa bảo đảm tính khả thi, đồng thời, vẫn bao hàm nội dung của hai yếu tố còn lại ở mức gián tiếp thông qua các đánh giá về tính tiếp cận và tính chấp nhận được.
Thứ nhất, về bảo đảm “tính khả dụng”. Tính khả dụng thể hiện ở mức độ tồn tại và sẵn có của các điều kiện, thiết chế, không gian và hoạt động văn hóa để người dân có thể tham gia vào đời sống văn hóa[11]. Triển khai thực hiện Nghị định số 05/2011/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 127/2024/NĐ-CP), chính quyền tỉnh Gia Lai đã nỗ lực duy trì và phát triển các thiết chế văn hóa ở cấp tỉnh và cấp xã như: nhà văn hóa thiếu nhi, nhà rông cộng đồng, các đội cồng chiêng, nhóm nghệ nhân dân gian… về cơ bản, đáp ứng được nhu cầu sử dụng của người dân. Hiện nay, tỉnh có 03 bảo tàng cấp tỉnh, nhiều nhà lưu niệm với nhiều hiện vật tư liệu quý giá, có 273/379 xã, phường, thị trấn xây dựng được trung tâm văn hóa - thể thao - thông tin (số liệu trước thời điểm sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã)[12].
Tuy nhiên, hệ thống thiết chế văn hóa ở cấp xã, thôn, làng, đặc biệt, tại vùng sâu, vùng xa còn thiếu và yếu. Các trung tâm, điểm bưu điện văn hóa xã chưa phát huy được hiệu quả, số lượng khu vui chơi giải trí công cộng còn ít, chưa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của người dân. Ở khu vực Tây Gia Lai, tỷ lệ các thôn có đội văn hóa, văn nghệ hoạt động chưa bảo đảm chất lượng chiếm đến 20%[13]. Một số nhà rông xuống cấp, thiếu kinh phí duy trì hoạt động; các chương trình văn hóa chủ yếu diễn ra dịp lễ hội, chưa có tính thường xuyên.
Thứ hai, về bảo đảm “tính tiếp cận”. Theo Bình luận chung số 21, khả năng tiếp cận gồm các cơ hội hiệu quả và cụ thể để cá nhân và cộng đồng tận hưởng văn hóa một cách trọn vẹn, trong phạm vi tiếp cận về mặt vật chất và tài chính cho tất cả mọi người ở cả khu vực thành thị và nông thôn, mà không phân biệt đối xử[14]. Điều này có nghĩa, khả năng tiếp cận trong lĩnh vực văn hóa không chỉ là vấn đề tiếp cận địa lý và tài chính, mà còn gồm cơ hội hiệu quả và cụ thể để cá nhân và cộng đồng được tận hưởng văn hóa một cách trọn vẹn, không bị phân biệt đối xử và được bảo đảm khả năng được tiếp cận thông tin để tham gia vào đời sống văn hóa phù hợp với dân tộc mình.
Chính quyền địa phương tại tỉnh Gia Lai đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo đảm “tính tiếp cận” cho người dân tộc thiểu số nhưng cũng gặp phải nhiều rào cản nhất định, thể hiện qua các khía cạnh sau:
- Khả năng tiếp cận về địa lý: tỉnh Gia Lai đã có nhiều nỗ lực đầu tư cho thiết chế văn hóa cấp xã, nhà rông cộng đồng, sân chơi thể thao, trung tâm học tập cộng đồng… nhưng còn khoảng cách rõ rệt giữa thành thị với nông thôn, giữa trung tâm và vùng sâu, vùng xa, nhất là ở các làng đồng bào dân tộc thiểu số. Nguyên nhân do phần lớn đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng điều kiện khó khăn[15], vùng dân tộc thiểu số và miền núi địa hình phức tạp, rất khó khăn trong thu hút đầu tư[16]. Nhiều nơi, địa bàn cách trở, cơ sở vật chất nghèo nàn, làm giảm khả năng tổ chức sinh hoạt văn hóa thường xuyên. Thiết chế bảo tàng cấp tỉnh được xây dựng tại phường Pleiku và phường Quy Nhơn, dẫn đến việc tiếp cận địa lý đối với người dân tộc thiểu số ở những xã vùng sâu, vùng xa rất khó khăn.
- Khả năng tiếp cận về tài chính và điều kiện sống: với quan điểm nhất quán với chủ trương của Đảng và nhiều nhà nghiên cứu khi xem “văn hóa là cơ sở để phát triển kinh tế, cố kết, ổn định xã hội, bảo đảm bền vững môi trường”[17], tỉnh Gia Lai chú trọng đầu tư vào lĩnh vực văn hóa, nhất là văn hóa khu vực dân tộc thiểu số có xu hướng tăng lên trong mục chi ngân sách nhà nước. Ví dụ, trong năm 2023, chỉ tính riêng Đề án bảo tồn và phát huy giá trị di sản Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên giai đoạn 2023 - 2025, tỉnh Gia Lai đã chi hơn 16 tỷ đồng để thực hiện[18], trong năm 2025, tổng kinh phí thực hiện Dự án Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch là 75.695 triệu đồng[19].
Tuy nhiên, khả năng tiếp cận của người dân tộc thiểu số còn hạn chế khi khoảng cách chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hội và thụ hưởng các dịch vụ cơ bản giữa các vùng dân tộc và đô thị còn khá lớn, tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số tại tỉnh Gia Lai còn cao (chiếm 82,0% tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh)[20]. Điều này làm cho người dân, đặc biệt là trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi gặp khó khăn trong việc tham gia các sự kiện hoặc lễ hội do không đủ chi phí đi lại, chuẩn bị trang phục truyền thống, hay cân nhắc giữa yếu tố kinh tế và văn hóa. Mặt khác, nguồn vốn ngân sách hỗ trợ mua sắm trang thiết bị phục vụ cho hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao tại các thiết chế văn hóa, thể thao các cấp còn hạn chế: phía Tây Gia Lai áp dụng mức 80 triệu/thiết chế của xã, 50 triệu/thiết chế của thôn[21], trong khi phía Đông Gia Lai cũng áp dụng mức tương tự nhưng là mức tối đa và phải “phù hợp với tình hình hoạt động thực tế của địa phương”[22].
Bên cạnh đó, vướng mắc trong quy định pháp luật về chính sách hỗ trợ hoạt động truyền dạy di sản văn hóa cũng là nguyên nhân làm giảm khả năng tiếp cận về mặt tài chính. Cụ thể, Luật Di sản văn hóa và Nghị định số 215/2025-NĐ/CP yêu cầu: “Chính quyền địa phương các cấp, các cơ quan, tổ chức, cá nhân và cộng đồng có trách nhiệm tạo điều kiện hỗ trợ và bảo đảm điều kiện cho hoạt động truyền dạy di sản văn hóa phi vật thể trong các danh sách của UNESCO, danh mục của quốc gia và di sản có nguy cơ mai một, thất truyền” (khoản 3 Điều 5). Quy định này ghi nhận vai trò và trách nhiệm của Nhà nước trong việc hỗ trợ nghệ nhân, đặc biệt là nghệ nhân người dân tộc thiểu số, những người trực tiếp thực hành, nắm giữ và truyền dạy tri thức, kỹ năng, bí quyết về di sản. Tuy nhiên, nội dung “tạo điều kiện” mang tính khuyến khích nhiều hơn ràng buộc, chưa kèm theo yêu cầu cụ thể về ngân sách hỗ trợ tối thiểu dẫn đến sự chênh lệch lớn giữa các địa phương: nơi có điều kiện thì chủ động bố trí ngân sách, nơi khó khăn thì hầu như không triển khai được, khiến việc bảo đảm quyền tham gia và truyền dạy di sản văn hóa thiếu tính thống nhất. Mặt khác, quy định trên chưa có sự phân biệt bảo đảm nguyên tắc mang tính “ưu tiên nhóm yếu thế”, nghĩa là có sự quan tâm hơn đối với các di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ mai một, hay di sản gắn với dân tộc thiểu số.
Thực tế trong quá trình triển khai, tại Tây Gia Lai, nguồn vốn hỗ trợ các nghệ nhân thường được lồng ghép trong nguồn vốn dự án tại Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025, mức hỗ trợ cho nghệ nhân là người dân tộc thiểu số đã có nhiều đóng góp trong việc lưu truyền, phổ biến, truyền dạy văn hóa truyền thống trong cộng đồng chỉ là 52 triệu đồng/5 tháng[23]. Tuy nhiên, mức hỗ trợ này chưa bảo đảm cho các nghệ nhân thực hiện công việc truyền dạy các kỹ thuật trong nghệ thuật cồng chiêng. Việc duy trì, phục dựng lễ hội không chỉ thực hiện bởi một vài nghệ nhân mà cần sự tham gia của cả cộng đồng, trong khi chi phí và nguồn ngân sách chi trả chỉ thực hiện một lần, không mang tính ổn định.
- Khả năng tiếp cận thông tin: hiện, tỉnh Gia Lai duy trì thực hiện các chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng Banah và Jrai trên Đài phát thanh - truyền hình Gia Lai và Báo Gia Lai, hệ thống loa phát thanh được thiết kế ở khắp các buôn, làng. Trong lĩnh vực giáo dục, ở phía Đông Gia Lai đã biên soạn và đưa vào giảng dạy cho cán bộ, công chức công tác tại miền núi 03 thứ tiếng, gồm: tiếng Chăm, tiếng Banah, tiếng Hrê[24] và sử dụng tài liệu giảng dạy tại các trường phổ thông dân tộc ở Tây Gia Lai với 02 thứ tiếng là tiếng Jrai và tiếng Banah[25]. Đây là biểu hiện rất tích cực nhằm đa dạng hóa nguồn tiếp cận thông tin của người đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, các nội dung truyền thông chưa có nhiều chương trình, bản tin, tài liệu văn hóa bằng tiếng dân tộc hoặc mới chỉ đáp ứng cho 02 dân tộc tiêu biểu (Banah và Jrai), trong khi Gia Lai có tới 44 dân tộc thiểu số[26]. Điều này làm giảm khả năng tiếp nhận, chia sẻ và lan tỏa văn hóa trong cộng đồng theo đúng ngôn ngữ mà họ lựa chọn. Hơn nữa, đa số nghệ nhân dân gian lớn tuổi vẫn quen với hình thức truyền miệng, trong khi thế hệ trẻ chưa có môi trường, công cụ hoặc kỹ năng để tham gia vào quá trình số hóa để duy trì và lan tỏa bản sắc văn hóa của dân tộc mình cũng là thách thức trong giai đoạn hiện nay.
Tiểu dự án 2 Dự án 10 Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025 về ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh trật tự vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, mặc dù đã được triển khai theo giai đoạn 2021 - 2025, đến nay, tại tỉnh Gia Lai vẫn chưa thực hiện xây dựng các điểm hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số ứng dụng công nghệ thông tin cũng là thực tiễn bất cập làm giảm khả năng tiếp cận thông tin của người dân tộc thiểu số[27]. Nguyên nhân một phần là do thực hiện sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã, dẫn đến không tiếp tục thực hiện được nguồn vốn theo kế hoạch.
Thứ ba, bảo đảm “tính chấp nhận được”. Theo định nghĩa tại Bình luận chung số 21 của Liên hợp quốc, “tính chấp nhận được” đòi hỏi các luật, chính sách, chiến lược, chương trình và biện pháp do Nhà nước hay chính quyền địa phương ban hành phải được xây dựng và thực hiện theo cách mà các cá nhân và cộng đồng liên quan có thể chấp nhận được. Điều này đặt ra yêu cầu cần tổ chức tham vấn với các cá nhân và cộng đồng liên quan để bảo đảm các biện pháp bảo vệ sự đa dạng văn hóa được họ chấp nhận[28].
Thời gian qua, tỉnh Gia Lai đã ban hành và triển khai nhiều chính sách quan trọng nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số gắn với các chủ trương như: Đề án phát triển văn hóa; Kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Theo đó, nhiều nội dung quan trọng, gắn với người dân nói chung, đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng, như phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tiếp tục đi vào chiều sâu, đem lại nhiều hiệu quả thiết thực (tính đến cuối năm 2023, có 1.566/1.576 thôn, tổ dân phố trên địa bàn khu vực Tây Gia Lai đã xây dựng và phê duyệt được hương ước, quy ước; khu vực Đông Gia Lai có 1.095/1.116 khu dân cư được công nhận danh hiệu Làng văn hóa, Khu phố văn hóa với tỉ lệ 98.11%). Việc thực hiện tốt các chương trình này góp phần quan trọng vào việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc thiểu số tại tỉnh Gia Lai.
Chính quyền tỉnh Gia Lai chú trọng thực hiện các chính sách về bảo tồn, duy trì lễ hội truyền thống văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số. Từ khi có Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Bảo tồn, phát triển văn hóa dân tộc thiểu số đến năm 2020; Quyết định số 2943/QĐ-TTg ngày 22/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Kiểm kê, sưu tầm, bảo quản trưng bày tuyên truyền di sản văn hóa truyền thống điển hình của các dân tộc thiểu số Việt Nam giai đoạn 2017 - 2020. Theo đó, tỉnh đã nỗ lực trong việc sưu tầm, bảo quản các di sản văn hóa truyền thống, tạo điều kiện cho thúc đẩy quyền tham gia vào đời sống văn hóa dưới góc độ quyền được duy trì giá trị văn hóa gắn với dân tộc mình. Đến năm 2024, tỉnh Gia Lai tự hào là tỉnh thành thành công nhất khu vực Tây Nguyên khi sưu tầm và lưu giữ trên 4.500 bộ cồng chiêng, với khoảng 900 nghệ nhân đánh chiêng giỏi và hơn 60 nghệ nhân biết chỉnh chiêng, gần 600 đội cồng chiêng, múa xoang[29].
Hàng năm, các cơ quan chuyên môn như Sở Văn hóa,Thể thao và Du lịch, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh chủ động xây dựng kế hoạch, triển khai tổ chức các ngày hội lớn như “Ngày hội văn hóa các dân tộc”; “Ngày hội đại đoàn kết các dân tộc”; “Nét đẹp văn hóa trong gia đình người Bahnar”; “Chương trình hoạt động văn hóa, nghệ thuật phục vụ vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2021 - 2030”… đã đóng góp tích cực vào quyền tiếp cận, thụ hưởng và tham gia vào đời sống văn hóa của người dân tộc thiểu số.
Điều 9 Nghị định số 215/2025-NĐ/CP nhấn mạnh vai trò cộng đồng trong việc phục hồi di sản văn hóa phi vật thể: “có sự tham gia, đồng thuận rộng rãi của chủ thể di sản và cơ quan chuyên môn về văn hóa cấp tỉnh” nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể về việc tham gia bằng hình thức nào và cách thức ghi nhận sự đồng thuận như một cơ chế bắt buộc, cũng chưa có quy định về tỷ lệ đại diện phụ nữ hay thiếu niên dân tộc thiểu số trong quá trình ra quyết định. Mặt khác, yêu cầu bắt buộc tham gia mới chỉ dừng ở hoạt động phục hồi di sản, trong khi quyền tham gia vào đời sống văn hóa không chỉ là tham gia vào phục hồi, duy trì mà còn tham gia thụ hưởng, sáng tạo văn hóa. Do vậy, một số hoạt động văn hóa nhằm duy trì bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số tại tỉnh Gia Lai vẫn được tổ chức mang tính “có kế hoạch hành chính” mà chưa xuất phát từ nhu cầu của cộng đồng. Ví dụ, trong một số lễ hội, phần biểu diễn dân ca, dân vũ được dựng sẵn theo kịch bản, thiếu không gian để các nghệ nhân hoạt động, thiếu không khí thiêng liêng nguyên bản, làm cho người tham gia cảm thấy xa lạ và không thấy “mình” trong đó. Hoặc việc buộc tháo dỡ công trình xây dựng nhà rông tại Chư Đăng Ya thuộc xã Biển Hồ, tỉnh Gia Lai do sai kết cấu truyền thống và thiếu sự tham vấn ý kiến của cộng đồng người dân tộc thiểu số[30].
Việc lồng ghép nội dung văn hóa dân tộc vào trường học còn nhiều bất cập, đặc biệt, khi triển khai Nghị định số 82/2010/NĐ-CP ngày 15/7/2010 của Chính phủ quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 96/2025/NĐ-CP ngày 29/4/2025 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 82/2010/NĐ-CP ngày 15/7/2010 của Chính phủ quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên)… Theo Báo cáo của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Gia Lai thì khó khăn lớn nhất trong việc tổ chức dạy học tiếng dân tộc thiểu số trong trường học ở Tây Gia Lai là việc thiếu trang thiết bị dạy học tiếng dân tộc thiểu số, học liệu học tiếng dân tộc thiểu số chưa có, trang thiết bị dạy học chủ yếu tự làm theo từng bài, từng lớp học[31]. Thực tế này dẫn đến việc tổ chức triển khai là chưa đáp ứng được yêu cầu.
3. Một số giải pháp tiếp tục thúc đẩy quyền tham gia vào đời sống văn hóa của người dân tộc thiểu số tại tỉnh Gia Lai
Dù đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo đảm quyền tham gia vào đời sống văn hóa của người dân tộc thiểu số, nhưng thực tiễn tại tỉnh Gia Lai còn tồn tại thách thức về cả nội dung chính sách, hạ tầng, nguồn lực, cũng như khả năng tiếp cận thực chất và bình đẳng của đồng bào các dân tộc thiểu số. Để thúc đẩy quyền tham gia vào đời sống văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số tại Gia Lai, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp sau:
Thứ nhất, duy trì và tiếp tục đầu tư phát triển thiết chế văn hóa cơ sở gắn với nhu cầu thực tiễn của người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tập trung thiết lập và củng cố các thiết chế văn hóa - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số như trung tâm học tập cộng đồng, nhà văn hóa thôn làng, thư viện dân tộc, câu lạc bộ nghệ thuật dân gian… theo hướng phát huy vai trò chủ thể của người dân. Trong đó, việc thiết kế và vận hành các thiết chế này cần bảo đảm sự tham gia thực chất của người dân địa phương, từ xây dựng kế hoạch, lựa chọn hoạt động, đến quá trình giám sát và đánh giá hiệu quả. Đây là nền tảng để người dân tham gia, sáng tạo và lan tỏa các giá trị văn hóa, đồng thời, thúc đẩy quá trình hội nhập văn hóa một cách chủ động và bình đẳng. Tỉnh Gia Lai cần nghiên cứu ban hành thống nhất mức chi hỗ trợ đầu tư phát triển các thiết chế văn hóa, nhất là tại các thôn, làng gắn với nhu cầu sinh hoạt cộng đồng của người dân tộc thiểu số.
Thứ hai, hoàn thiện các chính sách đặc thù bảo đảm quyền tham gia văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần bảo đảm tính có thể tiếp cận và tính chấp nhận được. Cần tiếp tục rà soát, bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống chính sách, pháp luật nhằm cụ thể hóa quyền tham gia vào đời sống văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 và bảo đảm nguyên tắc về tính thống nhất trong đa dạng văn hóa Việt Nam. Đồng thời, trong xây dựng chính sách phải tuân thủ nguyên tắc bảo tồn các giá trị văn hóa gắn liền với phát triển bền vững, nghĩa là phát triển năng lực sáng tạo của con người, cải thiện chất lượng sống cả về vật chất lẫn tinh thần, thiết lập và củng cố các điều kiện xã hội, văn hóa thuận lợi nhất để người dân có thể tham gia, sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của dân tộc mình. Cụ thể:
- Ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết quy định của Luật Di sản văn hóa năm 2024 và Nghị định số 215/2025/NĐ-CP từ tinh thần “tạo điều kiện” sang “nghĩa vụ bảo đảm” của Nhà nước về: (i) quy định mức ngân sách hỗ trợ tối thiểu cho hoạt động truyền dạy di sản văn hóa phi vật thể, đặc biệt, tại các địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số và di sản có nguy cơ mai một. Đây có thể là một tỷ lệ phần trăm cố định trong ngân sách chi lĩnh vực văn hóa hằng năm của địa phương hoặc một định mức tối thiểu trên tổng số nghệ nhân hay câu lạc bộ văn hóa cộng đồng; (ii) thiết lập quy định đồng bộ giữa trung ương và địa phương: trung ương (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) ban hành định mức chung; các tỉnh căn cứ vào điều kiện thực tế để phân bổ nhưng không được thấp hơn mức chuẩn. Điều này nhằm tránh tình trạng địa phương có điều kiện thì làm tốt, địa phương khó khăn thì bỏ ngỏ; (iii) lồng ghép chỉ tiêu giám sát, tức là yêu cầu các báo cáo định kỳ về bảo tồn di sản phải có mục riêng về “kinh phí truyền dạy di sản” và “số lượng nghệ nhân hay câu lạc bộ được hỗ trợ”, có phân tách theo giới và dân tộc. Đây vừa là cơ sở đánh giá hiệu quả chính sách, vừa bảo đảm tính minh bạch và bình đẳng.
- Bổ sung nguyên tắc tham gia thực chất của chủ thể di sản vào các văn bản hiện hành, mở rộng phạm vi yêu cầu tham vấn của cộng đồng dân tộc thiểu số tại văn bản hướng dẫn thi hành Nghị định số 215/2025/NĐ-CP. Theo đó, bổ sung quy định yêu cầu: “Mọi kế hoạch, dự án bảo tồn hoặc khai thác di sản văn hóa phi vật thể ở vùng dân tộc thiểu số phải được tham vấn chủ thể di sản trước khi quyết định”. Quy trình tham vấn phải được lập thành biên bản với mẫu thống nhất và nên lập bằng song ngữ (tiếng Việt và tiếng dân tộc thiểu số) để bảo đảm sự tham gia có ý nghĩa của cộng đồng dân tộc thiểu số.
- Nghiên cứu bổ sung quy định về các “gói hỗ trợ” văn hóa dành riêng cho người dân tộc thiểu số như: hỗ trợ chi phí đi lại, trang phục, biểu diễn… khi tham gia hoạt động văn hóa quy mô lớn; cấp thẻ ưu đãi tiếp cận thiết chế văn hóa, khu di tích cho đối tượng dân tộc thiểu số, hộ nghèo, học sinh dân tộc nội trú. Tích cực triển khai các hoạt động nhằm thu hẹp khoảng cách tiếp cận giữa các vùng, như tăng cường đưa các đoàn nghệ thuật, chương trình giao lưu văn hóa, lớp tập huấn kỹ năng về các làng đồng bào thiểu số ở xa trung tâm. Phối hợp với các đài truyền hình, báo chí, nền tảng số xây dựng nội dung tiếng dân tộc; truyền thông bằng loa truyền thanh xã, thiết bị cầm tay, mạng xã hội phổ biến ở giới trẻ.
- Tiếp tục rà soát các chính sách đặc thù giữa Tây Gia Lai và Đông Gia Lai để tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành các văn bản thay thế, tạo điều kiện thuận lợi cho thực hiện triển khai công tác dân tộc. Trong đó, chú trọng ban danh mục các xã thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; chính sách hỗ trợ xây dựng, duy trì các thiết chế văn hóa tại cơ sở; chính sách hỗ trợ nghệ nhân tiêu biểu trong truyền dạy di sản văn hóa phi vật thể.
Tiếp tục rà soát, cân đối bố trí và giải ngân nguồn vốn đối ứng ngân sách địa phương theo quy định, góp phần giảm nghèo bền vững, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục thực hiện Tiểu dự án 2 Dự án 10 Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025 về ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh trật tự vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, mặc dù đã được triển khai theo giai đoạn 2021 - 2025, góp phần giảm khoảng cách về tiếp cận thông tin khu vực đồng bào dân tộc thiểu số tại Gia Lai.
Thứ ba, khuyến khích các hoạt động gắn với thực hành văn hóa cộng đồng. Xuất phát từ nhu cầu thực tế của cộng đồng người dân tộc thiểu số tại địa phương, cần tạo điều kiện để tổ chức hoạt động dân gian hay ngày hội văn hóa, lớp học truyền nghề truyền thống tại cộng đồng gắn với đặc thù của mỗi dân tộc. Bên cạnh đó, tăng cường giáo dục văn hóa dân tộc trong nhà trường, đặc biệt, ở các trường phổ thông dân tộc, thông qua việc tích hợp các di sản văn hóa vào nội dung học tập, sinh hoạt ngoại khóa hay các hoạt động trải nghiệm. Tiếp tục phát huy vai trò của nghệ nhân, người có uy tín, già làng, trưởng bản trong việc truyền dạy ngôn ngữ, nhạc cụ dân tộc, lễ hội cũng là giải pháp thiết thực để thúc đẩy quyền tham gia vào đời sống văn hóa của người dân tộc thiểu số.
Kết luận
Quyền tham gia vào đời sống văn hóa là một trong những quyền văn hóa nền tảng, có ý nghĩa sâu sắc đối với sự phát triển toàn diện của con người và cộng đồng. Đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số như tỉnh Gia Lai, là nơi hội tụ đa dạng các giá trị văn hóa truyền thống, thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên sẽ góp phần bảo đảm thực thi quyền, góp phần thúc đẩy bình đẳng, hòa nhập, đạt được mục tiêu phát triển bền vững và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc./.
ThS. Trịnh Thị Thu Hiền
Trường Chính trị tỉnh Gia Lai
Ảnh: Internet
[1]. Liên hợp quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, https:// thuvienphapluat.vn/van-ban/Thuong-mai/Cong-uoc-quoc-te-cac-quyen-kinh-te-xa-hoi-va-van-hoa-1966-269761.aspx, truy cập ngày 28/9/2025.
[2]. Liên hợp quốc (2007), Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc bản địa, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Tuyen-ngon-ve-quyen-cua-cac-dan-toc-ban-dia-2007-276380.aspx, truy cập ngày 28/9/2025.
[3]. Liên hợp quốc (2007), Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc bản địa, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Tuyen-ngon-ve-quyen-cua-cac-dan-toc-ban-dia-2007-276380.aspx, truy cập ngày 28/9/2025.
[4]. Liên hợp quốc (1989), Công ước về quyền trẻ em, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Cong-uoc-cua-Lien-hop-quoc-ve-quyen-tre-em-233659.aspx, truy cập ngày 28/9/2025.
[5]. PGS.TS. Tường Duy Kiên, PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Hải (2024), Quyền con người trong phát triển xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 376.
[6]. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai (2025), Báo cáo tình hình thực hiện công tác dân tộc 6 tháng đầu năm và phương hướng, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025, ngày 21/7/2025.
[7]. Trịnh Thị Thủy (2021), Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số giai đoạn 2011-2020, những đề xuất cho giai đoạn 2021-2030, Tạp chí Nghiên cứu dân tộc, số 10, tập 1, tr. 15.
[8]. TS. Nguyễn Văn Cương, TS. Trương Hồng Quang (2021), Xu hướng mới về quyền con người - Lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 163.
[9]. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 23.
[10]. Nguyễn Thị Loan Anh (2020), Bảo đảm quyền dân tộc thiểu số trong điều kiện hội nhập quốc tế, Tạp chí Pháp luật về quyền con người, số 2 - 2020, tr. 91.
[11]. Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc (2009), Bình luận chung số 21: Quyền của mọi người được tham gia vào đời sống văn hóa (Điều 15, khoản 1(a) của Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa), Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên hợp quốc, tr.4, https://digitallibrary.un.org/record/673543, truy cập ngày ngày 28/9/2025.
[12]. Số liệu tổng hợp từ: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bình Định (2024), Báo cáo số 645-BC/SVHTT ngày 25/3/2024, tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Tỉnh ủy Gia Lai (2024), Báo cáo số 630-BC/TU ngày 04/9/2024, tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
[13]. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai (2024), Báo cáo số 01/BC-BCĐ, ngày 28/11/2024, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh Gia Lai lần thứ IV - năm 2024.
[14]. Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc (2009), tlđd, tr.5
[15]. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai (2024), tlđd.
[16]. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định (2024), Báo cáo số 02/BC-BCĐ ngày 25/9/2024, Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh Bình Định lần thứ IV - năm 2024.
[17]. Vương Xuân Tình, Trần Minh Hằng (2019), Văn hóa với phát triển: Quan điểm, lý thuyết và nghiên cứu ở các tộc người của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu dân tộc, số 6 (2019), tr. 11.
[18]. Tỉnh ủy Gia Lai (2024), Báo cáo số 630-BC/TU ngày 04/9/2024 Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
[19]. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai (2025), Báo cáo số 13/BC-UBND ngày 21/7/2025 về tình hình thực hiện công tác dân tộc 06 tháng đầu năm và phương hướng, nhiệm vụ 06 tháng cuối năm 2025.
[20]. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai (2025), tlđd.
[21]. Hội đồng nhân dân tỉnh Gia Lai (2022), Nghị quyết số 44/2022/NQ-HĐND ngày 09/12/2022 quy định mức hỗ trợ nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở từ kinh phí sự nghiệp nguồn ngân sách nhà nước thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025 trên địa bàn tỉnh Gia Lai.
[22]. Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Định (2022), Nghị quyết số 29/2022/NQ-HĐND ngày 10/12/2022 về Ban hành quy định cụ thể mức hỗ trợ các nội dung chi và mức chi theo quy định tại Thông tư số 53/2022/TT-BTC ngày 12/8/2022 của Bộ trưởng Bộ Tài chính thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tỉnh Bình Định, giai đoạn 2021 - 2025 (khoản 1 Điều 14).
[23]. Hoàng Ngọc (2023), Gia Lai: Trao kinh phí hỗ trợ 4 nghệ nhân ưu tú, Báo Gia Lai online, https://baogialai.com.vn/gia-lai-trao-kinh-phi-ho-tro-4-nghe-nhan-uu-tu-post247171.html, truy cập ngày 08/9/2025.
[24]. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định (2024), tlđd.
[25]. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai (2024), tlđd.
[26]. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai (2025), tlđd.
[27]. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai (2025), tlđd.
[28]. Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc (2009), tlđd, tr. 5.
[29]. Tỉnh ủy Gia Lai (2024), tlđd, tr. 8.
[30]. Chí Dũng (2025), Nhà rông làm bằng bê-tông bị dừng thi công tại chân núi lửa Chư Đăng Ya, https://baomoi.com/nha-rong-lam-bang-be-tong-bi-dung-thi-cong-tai-chan-nui-lua-chu-dang-ya-c52983541.epi, truy cập ngày 29/8/2025
[31]. Sở Giáo dục và đào tạo tỉnh Gia Lai (2025), Báo cáo số 345/SGDĐT-TCCB ngày 25/3/2025 về việc báo cáo tình hình tổ chức dạy học tiếng dân tộc thiểu số và nhu cầu phát triển đội ngũ giáo viên dạy học tiếng dân tộc thiểu số theo Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chí Dũng (2025), Nhà rông làm bằng bê-tông bị dừng thi công tại chân núi lửa Chư Đăng Ya, https://baomoi.com/nha-rong-lam-bang-be-tong-bi-dung-thi-cong-tai-chan-nui-lua-chu-dang-ya-c52983541.epi, truy cập ngày 29/8/2025.
2. Hoàng Ngọc (2023), Gia Lai: Trao kinh phí hỗ trợ 4 nghệ nhân ưu tú, Báo Gia Lai online, https://baogialai.com.vn/gia-lai-trao-kinh-phi-ho-tro-4-nghe-nhan-uu-tu-post247171.html, truy cập ngày 08/9/2025.
3. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Loan Anh (2020), Bảo đảm quyền dân tộc thiểu số trong điều kiện hội nhập quốc tế, Tạp chí Pháp luật về quyền con người, số 2 - 2020.
5. PGS.TS. Tường Duy Kiên, PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Hải (2024), Quyền con người trong phát triển xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
6. Trịnh Thị Thủy (2021), Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số giai đoạn 2011 - 2020, những đề xuất cho giai đoạn 2021-2030, Tạp chí Nghiên cứu dân tộc, số 10, tập 1.
7. TS. Nguyễn Văn Cương, TS. Trương Hồng Quang (2021), Xu hướng mới về quyền con người - Lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
8. Vương Xuân Tình, Trần Minh Hằng (2019), Văn hóa với phát triển: Quan điểm, lý thuyết và nghiên cứu ở các tộc người của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu dân tộc, số 6.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số Kỳ 1 (440) tháng 11/2025)