1. Quan điểm của Đảng về đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tại Nghị quyết số 27-NQ/TW
Ở Việt Nam, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền gắn liền với quá trình cứu nước, dựng nước và giữ nước. Ngay sau khi giành được độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiện thực hóa tư tưởng về xây dựng một Nhà nước hợp hiến, thượng tôn pháp luật trong Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945 và Hiến pháp năm 1946[1]. Lúc bấy giờ, tuy chưa sử dụng khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” nhưng Người đã sớm đề cao vai trò của Hiến pháp và pháp luật đối với công cuộc quản lý, gìn giữ trật tự xã hội. Đây chính là nền móng củng cố cho sự phát triển tư tưởng về xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam sau này.
Nghiên cứu cho thấy, khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam lần đầu tiên được nêu ra và sử dụng một cách chính thống tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII[2] (ngày 29/11/1991). Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đó tiếp tục được khẳng định, không ngừng được bổ sung và phát triển cùng với quá trình đổi mới của đất nước qua Hội nghị đại biểu toàn quốc các kỳ lần thứ VIII, IX, X, XI, XII và nhiều các văn bản liên quan khác của Đảng.
Đặc biệt, gần đây nhất, khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” tiếp tục được ghi nhận trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và cụ thể hóa rõ nét trong Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW), đó là: Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, thực hiện nguyên tắc pháp quyền, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân[3]. Quan điểm này cũng đã được chính thức thể chế hóa tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Đây cũng chính là một trong những đặc trưng được Đảng ta lần đầu tiên xác định chính thức, thống nhất, rõ ràng, đầy đủ trong một Nghị quyết của Trung ương dựa trên tinh thần của tất cả các Cương lĩnh, Hiến pháp và văn kiện Đại hội Đảng qua các nhiệm kỳ.
Theo đó, Nghị quyết số 27-NQ/TW đã chỉ rõ 08 đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau:
Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Đặc trưng này có cơ sở pháp lý được hiến định tại Điều 4[4] Hiến pháp năm 2013, thể hiện tính đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phù hợp với hệ thống chính trị của Việt Nam khi Nhà nước được tổ chức và hoạt động dưới sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất cầm quyền - Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó càng đề cao vị trí bất biến và vai trò quan trọng của Đảng, là kim chỉ nam đối với mọi hoạt động trong công cuộc đi lên xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng chỉ thị, nghị quyết, đề ra chủ trương, đường lối định hướng xây dựng tổ chức bộ máy, luật pháp, chính sách của Nhà nước; giới thiệu đảng viên của mình để nhân dân bầu vào các vị trí lãnh đạo các cơ quan nhà nước nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành luật pháp, chính sách và tổ chức thực hiện để chủ trương, đường lối của Đảng đi vào cuộc sống, đem lại những kết quả và bằng việc kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên trong các cơ quan nhà nước về việc thực hiện chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng. Đồng thời, Đảng lãnh đạo các tổ chức chính trị, xã hội tuyên truyền, vận động nhân dân ủng hộ, bảo vệ Nhà nước, tích cực tham gia thực hiện luật pháp và giám sát các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thực hiện luật pháp, chính sách.
Thứ hai, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đặc trưng này có cơ sở pháp lý được hiến định tại Điều 2[5] Hiến pháp năm 2013, thể hiện được bản chất dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, giúp phân biệt Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ta với các Nhà nước khác trên thế giới. Đúng như tinh thần của các bản Hiến pháp trước đó, Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa và thể hiện sâu sắc, nhất quán vấn đề chủ quyền nhân dân trong nội dung của Hiến pháp; khẳng định rõ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Nhân dân được phép thực hiện quyền làm chủ của mình dưới hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan có thẩm quyền khác của Nhà nước. Nhà nước theo đó phải bảo đảm được trách nhiệm tôn trọng và thúc đẩy quyền làm chủ của nhân dân, đặt nhân dân ở vị trí trung tâm, mọi chính sách đặt ra cũng đều nhằm mục tiêu xây dựng và thực thi một nền dân chủ thực sự, đồng nghĩa với việc thực hiện tốt cả dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, bám sát phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”[6].
Thứ ba, quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật.
Đặc trưng này có cơ sở pháp lý được hiến định tại Điều 14 Hiến pháp năm 2013[7]. Công nhận, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân vừa là bản chất, vừa là mục tiêu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các quyền cơ bản, thiêng liêng của mỗi con người, mỗi công dân như quyền sống, quyền bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc,… đều được Nhà nước công nhận, ghi nhận trong Hiến pháp và được bảo đảm thực hiện thông qua các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Nhà nước có trách nhiệm tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện và thụ hưởng đầy đủ các quyền của mình theo đúng các quy định của pháp luật, bất cứ chủ thể nào có hành vi xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân đều sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Suy cho cùng, tất cả đều là nhằm bảo đảm mục tiêu lấy con người làm trung tâm của nguồn lực phát triển xã hội, vì một mục tiêu dân giàu, nước mạnh, “lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”[8].
Thứ tư, Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật.
Đặc trưng này có cơ sở pháp lý được hiến định tại Điều 8 Hiến pháp năm 2013, là đặc trưng mang tính phổ biến, xuyên suốt bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật. Điều này đồng nghĩa với việc mọi cơ quan nhà nước, mọi tổ chức, cá nhân dưới chế độ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đều phải thực hiện nghĩa vụ tuân thủ, thi hành, sử dụng pháp luật, chỉ được phép hoạt động trong khuôn khổ quy định của pháp luật.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý trật tự xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Điều đó có nghĩa là, Hiến pháp quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, xác định địa vị pháp lý của các tổ chức xã hội, quy chế pháp lý của các cá nhân... Đồng thời, Hiến pháp quy định sự kiểm soát của nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và các cá nhân, từ đó giúp duy trì, quản lý trật tự xã hội.
Từ đó, có thể thấy, Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đặt ở vị trí tối thượng. Hiến pháp Việt Nam được coi là “đạo luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất”[9]. “Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý”[10]. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp. Tổ chức, cá nhân phải tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh Hiến pháp, pháp luật, mọi vi phạm pháp luật phải được xử lý nghiêm minh, kịp thời.
Thứ năm, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Đặc trưng này có cơ sở pháp lý được hiến định tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013, thể hiện tính đặc thù về nguyên tắc phân chia quyền lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong chế độ dân chủ và pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước là thống nhất ở nơi dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Tuy nhiên, quyền lực nhà nước không phải là quyền lực tự có mà là quyền lực được nhân dân ủy quyền. Vì thế, khi xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước cần phải được phân công, phân nhiệm rõ ràng, rành mạch nhằm phòng ngừa sự tập trung chuyên chế, độc tài cũng như tất yếu nảy sinh đòi hỏi chính đáng và tự nhiên phải kiểm soát quyền lực nhà nước, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngoài việc tiếp tục khẳng định cơ chế phân công, phối hợp của ba nhánh quyền, Đảng ta còn muốn tập trung nhấn mạnh cơ chế “kiểm soát hiệu quả” trong thực thi quyền lực nhà nước cần được tăng cường hơn nữa, cũng như cần phát huy hơn nữa ý thức, trách nhiệm của toàn thể nhân dân trong kiểm soát hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.
Thứ sáu, hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán.
Đặc trưng này vừa thể hiện được nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, thể hiện được vai trò quan trọng của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu về mức độ hoàn thiện đối với hệ thống pháp luật trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Theo đó, hệ thống pháp luật phải đáp ứng cả tiêu chí về nội dung và hình thức. Về nội dung, các quy định của pháp luật cần phải được xây dựng dựa trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát mục tiêu công bằng, nhân đạo, nội dung không được trái với thuần phong mỹ tục cũng như đi ngược lại các quy phạm đạo đức mà xã hội thừa nhận. Về hình thức, hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm đáp ứng đầy đủ các tiêu chí về hình thức bao gồm tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, từ đó giúp mọi người dân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa đều có thể tiếp cận, hiểu và thực hiện đúng các quy định pháp luật, góp phần hiện thực hóa hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa một cách nghiêm minh, nhất quán.
Thứ bảy, độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Đây là một đặc trưng mới được đề cập đến khi bàn về đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặc trưng lần đầu tiên được ghi nhận trong Nghị quyết số 27-NQ/TW. Đặc trưng này xuất phát từ yêu cầu “tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”[11] được đặt ra trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Đồng thời cũng chính là một nguyên tắc hiến định được quy định tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013 nhằm bảo đảm việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm hoàn toàn độc lập, phải dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án, tuyệt đối không được tùy tiện, chủ quan trong việc áp dụng pháp luật. Không một ai, không một cơ quan, tổ chức nào có quyền can thiệp vào hoạt động xét xử của thẩm phán và hội thẩm. Sự độc lập của thẩm phán và hội thẩm khi xét xử còn được thể hiện trong quan hệ giữa các cấp xét xử, Tòa án cấp trên không được quyết định hoặc gợi ý cho Tòa án cấp dưới trước khi xét xử một vụ án cụ thể. Khi xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, thẩm phán cũng không bị lệ thuộc bởi các nhận định, những phán quyết của Tòa án cấp dưới.
Thứ tám, tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Đây cũng là một đặc trưng mới được đề cập khi bàn về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết số 27-NQ/TW cũng là văn bản đầu tiên ghi nhận và xác định đặc trưng này thuộc về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xuất phát từ việc cụ thể hóa quan điểm của Đại hội lần thứ XIII của Đảng: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”[12]. Đặc trưng này phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam trong thời kỳ mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới, theo đó, việc tham gia vào nhiều điều ước quốc tế nhằm mở rộng cơ hội phát triển, nâng tầm vị thế quốc gia trên trường quốc tế là điều cần thiết. Đặc trưng này nhấn mạnh rằng, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn tôn trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế đã ký kết theo phương châm bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế, như: Bình đẳng chủ quyền của các quốc gia; giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; cấm sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực; không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước; tôn trọng các nghĩa vụ quốc tế và pháp luật quốc tế.
Mỗi đặc trưng kể trên của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tuy phản ánh một phương diện nhất định của Nhà nước nhưng chúng đều có mối quan hệ biện chứng với nhau, tạo thành một thể thống nhất trong Nhà nước. Bỏ đi đặc trưng nào cũng là cắt đi mắt xích của mối liên hệ của chỉnh thể, từ đó có thể dẫn đến việc nhận thức khiếm khuyết cũng như sự phiến diện, thiếu sót trong việc xác định phương hướng tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền. Đó cũng chính là lý do mà Nghị quyết số 27-NQ/TW đã xác định rõ ràng, nhất quán 08 đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như đặt ra yêu cầu thống nhất lại nhận thức cho mọi công dân Việt Nam về các đặc trưng chính thống của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
2. Phát huy những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo tinh thần của Nghị quyết số 27-NQ/TW
Trong suốt hơn 35 năm đổi mới, công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đạt được không ít những thành tựu[13] đáng kể trong nhiều mặt như: Nhận thức, lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng thống nhất, đầy đủ hơn; hệ thống pháp luật đã được hoàn thiện một bước cơ bản; vai trò của pháp luật và việc thực thi pháp luật trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước và xã hội được chú trọng hơn; bộ máy nhà nước từng bước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cải cách hành chính, cải cách tư pháp có bước đột phá trên một số lĩnh vực nhất định.
Tuy nhiên, công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là cả một quá trình lâu dài đầy thách thức, khó khăn[14] như: Hệ thống pháp luật còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; quyền lực nhà nước chưa được kiểm soát hiệu quả, cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ; ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên và nhân dân chưa nghiêm; cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, quyền con người, quyền công dân có mặt chưa được phát huy đầy đủ; cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước...
Nhằm khắc phục những khó khăn, bất cập nêu trên, đồng thời bảo đảm đầy đủ các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xác định trong Nghị quyết số 27-NQ/TW giai đoạn hiện nay cần phải thực hiện một số giải pháp trọng tâm, cụ thể như sau:
Thứ nhất, tăng cường, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều này đồng nghĩa với việc cần phải tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng; tiếp tục nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ.
Thứ hai, bảo đảm cụ thể hóa, hiện thực hóa quyền làm chủ của nhân dân. Theo đó, cần thể chế hóa đầy đủ và thực hiện đúng đắn, hiệu quả cơ chế nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở[15]. Đồng thời, thường xuyên triển khai tổng kết việc thực hiện và nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật theo hướng phát huy tốt hơn các hình thức dân chủ trực tiếp của nhân dân, hoàn thiện cơ chế để tăng cường và bảo đảm Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.
Thứ ba, bảo đảm vị trí, vai trò của Hiến pháp và pháp luật trên thực tế; chú trọng xây dựng ý thức và lối sống thượng tôn pháp luật nhằm bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Theo đó, cần đổi mới các phương thức tuyên truyền pháp luật hiệu quả hơn nhằm chú trọng nâng cao ý thức trách nhiệm, năng lực của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong thực thi Hiến pháp, pháp luật. Bên cạnh đó, để tăng cường trách nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên cũng cần hoàn thiện thêm cơ chế để bảo đảm các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, thực sự gương mẫu, đi đầu trong việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
Thứ tư, tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước; đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Theo đó, cần quy định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành pháp trong kiểm soát các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền tư pháp; của cơ quan tư pháp trong kiểm soát các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, quyền lập pháp[16]; mở rộng và nhấn mạnh các kênh giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng và của nhân dân, hoàn thiện cơ chế để nhân dân trực tiếp kiểm soát quyền lực nhà nước bám sát nguyên tắc “mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền lực càng cao trách nhiệm càng lớn; lạm dụng, lợi dụng quyền lực phải bị truy cứu trách nhiệm và xử lý”[17].
Thứ năm, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, hiệu quả, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh và bền vững. Theo đó, cần đa dạng hóa nguồn pháp luật; tăng cường xây dựng các đạo luật có nội dung cụ thể, hiệu lực trực tiếp; kiên quyết chống tiêu cực, “lợi ích nhóm” trong công tác xây dựng pháp luật; xây dựng mạng lưới, nâng cao năng lực của hệ thống dịch vụ pháp lý, trợ giúp pháp lý và hỗ trợ pháp lý để người dân và doanh nghiệp dễ tiếp cận pháp luật; gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với thực hiện pháp luật; hoàn thiện các quy định về giải thích pháp luật; tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật; phát triển nguồn nhân lực pháp luật, hiện đại hóa phương thức, phương tiện xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật[18]…
Thứ sáu, tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của bộ máy, nâng cao hiệu quả công tác cải cách tư pháp. Theo đó, cần tiếp tục hoàn thiện tổ chức, bộ máy của Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Cụ thể hơn[19], cần hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp; hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp Tòa án là quan hệ hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm phán, hội thẩm khi xét xử; tăng cường kiểm soát bên trong việc thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động xét xử phù hợp với nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; tiếp tục rà soát, điều chỉnh, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của cơ quan điều tra, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân đối với người bị giữ, bị bắt, tạm giữ, tạm giam...
Thứ bảy, chủ động hội nhập quốc tế đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Theo đó, cần tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả Kết luận số 73-KL/TW ngày 20/5/2020 về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 09/12/2009 của Ban Bí thư về hợp tác nước ngoài trong lĩnh vực pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Đồng thời, nâng cao năng lực của các cơ quan chức năng trong tổ chức thực hiện đầy đủ, hiệu quả các cam kết, điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia và đã nội luật hóa.
ThS. Nguyễn Hải Anh
Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị khu vực I
[1]. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Nhà nước và Pháp luật Việt Nam (dùng cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị), 2021, Nxb. Lý luận chính trị, tr. 101.
[2]. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Nhà nước và Pháp luật Việt Nam (dùng cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị), 2021, Nxb. Lý luận chính trị, tr. 101.
[3]. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại điểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H2021, tr. 101.
[4]. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam … là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
[5]. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”.
[6]. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại điểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H2021, tr. 173.
[7]. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.
[8]. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại điểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H2021, tr. 27, 28.
[9]. Điều 119 Hiến pháp năm 2013.
[10]. Điều 119 Hiến pháp năm 2013.
[11]. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại điểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H2021, tr. 149.
[12]. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại điểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H2021, tr. 161.
[13]. Mục I Nghị quyết số 27-NQ/TW.
[14]. Mục I Nghị quyết số 27-NQ/TW.
[15]. Tiểu mục 2 mục IV Nghị quyết số 27-NQ/TW.
[16]. Tiểu mục 8 mục IV Nghị quyết số 27-NQ/TW.
[17]. Tiểu mục 8 mục IV Nghị quyết số 27-NQ/TW.
[18]. Tiểu mục 3 mục IV Nghị quyết số 27-NQ/TW.
[19]. Tiểu mục 7 mục IV Nghị quyết số 27-NQ/TW.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 389), tháng 9/2023)