Thứ tư 27/08/2025 13:29
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ đối với đối tượng tranh chấp là bất động sản

Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ đối với đối tượng tranh chấp là bất động sản

1. Đặt vấn đề

Điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ như sau: “Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết”.

Tuy nhiên, việc xác định đối tượng tranh chấp thực tế hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau dẫn đến tình trạng tranh chấp về thẩm quyền giải quyết giữa các Tòa án, gây phiền hà bức xúc cho đương sự. Do đó, việc xác định đối tượng tranh chấp có phải là bất động sản (BĐS) hay không là vô cùng quan trọng, quyết định việc Tòa án có thẩm quyền giải quyết đối với tranh chấp đó. Nếu không xác định đúng vấn đề này là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, hủy án để xét xử lại, gây ra sự lãng phí về thời gian, công sức cũng như mất niềm tin của người dân.

2. Một số vấn đề lý luận và quy định pháp luật về thẩm quyền của Tòa án đối với tranh chấp có đối tượng là bất động sản

Một là, về khái niệm bất động sản.

Pháp luật dân sự hiện hành không đưa ra định nghĩa về BĐS mà chỉ liệt kê các tài sản là BĐS. Theo khoản 1 Điều 107 Bộ luật Dân sự năm 2015, BĐS bao gồm: Đất đai; Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai; Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng; Tài sản khác theo quy định của pháp luật[1].

Hai là, về đối tượng tranh chấp là bất động sản và thẩm quyền của Tòa án đối với các tranh chấp có đối tượng là bất động sản.

Có thể xác định một số loại tranh chấp có đối tượng là BĐS như sau: Tranh chấp có đối tượng là đất đai, nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai và tài sản khác gắn liền với chúng. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ đối với các tranh chấp có đối tượng là BĐS như đã nêu trên thì chỉ Tòa án nơi có BĐS có thẩm quyền giải quyết[2].

Theo quy định trên thì Tòa án nơi có BĐS sẽ có điều kiện tốt nhất để tiến hành việc xác minh nguồn gốc đất, xem xét, thẩm định tại chỗ tình trạng của BĐS, thực hiện việc thu thập tài liệu, chứng cứ… mà không cần phải ủy thác thu thập chứng cứ, mất nhiều thời gian và đôi khi không đúng yêu cầu của Tòa án nơi ủy thác. Điều này tạo thuận lợi cho việc khởi kiện, yêu cầu của đương sự cũng như việc thụ lý, giải quyết của Tòa án, Cơ quan thi hành án, giúp cho việc giải quyết vụ, việc dân sự được nhanh chóng, kịp thời[3].

Tuy nhiên, khái niệm tranh chấp có đối tượng là BĐS có nhiều cách hiểu khác nhau

Quan điểm thứ nhất cho rằng, tranh chấp liên quan đến BĐS có nghĩa hẹp và thuộc nội hàm của tranh chấp có đối tượng là BĐS. Ví dụ: Tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất; tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất[4]… Quan điểm khác lại cho rằng, tranh chấp về BĐS đồng nhất với tranh chấp có đối tượng là BĐS thông qua ví dụ về tranh chấp thừa kế nhưng do có tính chất đặc thù và để bảo đảm sự thuận tiện trong quá trình giải quyết nên không thể theo nguyên tắc của Tòa án nơi có BĐS thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Ví dụ như: “Vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế có tranh chấp về BĐS có tính chất đặc thù, khác với tranh chấp BĐS thông thường khác. Bởi lẽ, trong vụ án tranh chấp thừa kế có thể tranh chấp nhiều nội dung như: Tranh chấp di sản thừa kế (yêu cầu xác định di sản trong đó có BĐS có phải là di sản thừa kế hay không, chuyển nhượng, tặng cho người khác...), tranh chấp về di chúc (yêu cầu công nhận hay không công nhận di chúc, chia thừa kế theo di chúc hay theo pháp luật...), tranh chấp hàng thừa kế, nghĩa vụ của người chết để lại... trong đó, tranh chấp về BĐS chỉ là một trong những nội dung cần phải giải quyết trong vụ án tranh chấp về thừa kế. Để giải quyết vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế, ngoài việc chứng minh của đương sự thì Tòa án phải tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ để xác định chính xác hàng thừa kế, di sản thừa kế để chia theo quy định của pháp luật hoặc theo di chúc. Với những yêu cầu trong giải quyết vụ án tranh chấp thừa kế thì Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc sẽ là nơi có điều kiện tốt nhất để giải quyết tranh chấp”[5].

Quan điểm thứ hai cho rằng, tranh chấp liên quan đến BĐS có nghĩa rộng hơn và bao hàm cả tranh chấp về BĐS, cụ thể về các giao dịch có liên quan đến BĐS như: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; hợp đồng mua bán nhà; hợp đồng đặt cọc hay đòi lại nhà, đất cho thuê, cho mượn, ở nhờ… Đối với tranh chấp như thừa kế nhà, đất; tranh chấp về BĐS trong vụ án hôn nhân… là “tranh chấp liên quan đến BĐS”; thẩm quyền của Tòa án giải quyết là “Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức…”[6].

Theo tác giả, tranh chấp về BĐS[7] có nội hàm rộng hơn và bao hàm cả tranh chấp có đối tượng là BĐS, tranh chấp liên quan đến BĐS. Về tranh chấp có đối tượng là BĐS đã được xác định ở trên, còn đối với tranh chấp liên quan đến BĐS là một khái niệm dùng để chỉ những tranh chấp tuy đối tượng không phải là BĐS nhưng BĐS là một trong các nội dung của đối tượng tranh chấp. Theo đó, có quan điểm diễn đạt về khái niệm và đưa ra ví dụ về tranh chấp liên quan đến BĐS như sau: “Tranh chấp liên quan đến BĐS được hiểu là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng dân sự hoặc giao dịch liên quan đến BĐS như: Mua bán, tặng cho, thừa kế, ủy quyền quản lý… Tức là nếu các đương sự xảy ra tranh chấp với nhau về thừa kế quyền sử dụng đất hoặc chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất; hay tranh chấp về việc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng cho thuê nhà,.. thì những tranh chấp này được hiểu là những tranh chấp có liên quan đến BĐS”[8].

Việc phân biệt và nắm vững các khái niệm này có ý nghĩa rất quan trọng, nếu không sẽ dẫn đến việc xác định sai Tòa án có thẩm quyền giải quyết, bởi lẽ, khi đã xác định đối tượng tranh chấp là BĐS thì chỉ duy nhất Tòa án nơi có BĐS mới có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó mà không thể được lựa chọn Tòa án khác (khi đáp ứng điều kiện cho mỗi trường hợp cụ thể) như các quan hệ tranh chấp khác[9]. Do đó, khi áp dụng trên thực tế, cần lưu ý khi giải quyết tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất hoặc tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất do người khác đang quản lý, sử dụng, thì xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo lãnh thổ là Tòa án nơi có BĐS. Đối với tranh chấp liên quan đến giao dịch về quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung là quyền sử dụng đất khi ly hôn thì được xác định theo thứ tự lần lượt là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ trong giao dịch dân sự, tranh chấp về quan hệ thừa kế, quan hệ hôn nhân và gia đình nên không xác định Tòa án nơi có BĐS có thẩm quyền giải quyết, mà việc xác định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ căn cứ vào quy định chung tại Điều 39, Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết hoặc theo sự thỏa thuận của đương sự, sự lựa chọn của nguyên đơn[10]). Điều này được khẳng định rõ tại Điều 7 Mục III Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử. Đối với trường hợp tranh chấp hôn nhân và gia đình có liên quan đến BĐS như chia tài sản là BĐS sau khi ly hôn mà nơi cư trú của bị đơn và nơi có BĐS khác nhau thì Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết? Theo đó, Tòa án nhân dân Tối cao đã theo hướng xác định đối tượng của quan hệ tranh chấp này không phải là BĐS nên không áp dụng điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thông qua cách giải thích như sau: “Theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn là tranh chấp về hôn nhân và gia đình”. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì: “Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, Điều 28, Điều 30 và Điều 32 của Bộ luật này. Trường hợp này, quan hệ hôn nhân chấm dứt do vợ chồng đã ly hôn, nhưng tranh chấp tài sản sau ly hôn vẫn là tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nên căn cứ các quy định nêu trên thì Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết”[11].

3. Tranh chấp có đối tượng là đất đai

3.1. Khái niệm tranh chấp đất đai

Luật Đất đai năm 2013 đưa ra định nghĩa như sau: “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”[12].

Theo Công văn số 193/TANDTC ngày 06/12/2019 của Tòa án nhân dân tối cao về việc trao đổi nghiệp vụ thì Tòa án tối cao viện dẫn vào quy định tại khoản 24 Điều 3 và khoản 1 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 để xác định: “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất, cho nên tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là tranh chấp đất đai và đối tượng tranh chấp là đất đai”. Theo cách giải thích này thì tất cả các tranh chấp đất đai (tranh chấp đất đai được hiểu chính là tranh chấp quyền sử dụng đất và các tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất[13]) đều có đối tượng tranh chấp là đất đai, tức BĐS thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp này là Tòa án nơi có BĐS. Tuy nhiên, với cách giải thích như vậy theo tác giả là chưa phù hợp, bởi lẽ, tranh chấp đất đai là tranh chấp về “quyền” và tranh chấp về “nghĩa vụ” liên quan đến đất đai của người hiện đang quản lý, sử dụng đất với những người có liên quan trong quan hệ đất đai. Theo đó, tất cả các giao dịch dân sự giữa các chủ thể mà đối tượng của giao dịch đó là đất đai, quyền và nghĩa vụ về đất đều được hiểu là quan hệ đất đai. Và theo cách hiểu này, các tranh chấp liên quan đến việc thực hiện các hợp đồng về đất đai sẽ được hiểu là tranh chấp đất đai, chẳng hạn tranh chấp về nghĩa vụ nộp thuế, chuyển quyền sử dụng đất giữa các bên tham gia quan hệ chuyển nhượng - nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hay tranh chấp về quyền yêu cầu trả công trong hợp đồng ủy quyền quản lý, sử dụng đất… Rõ ràng, các tranh chấp dạng này là những tranh chấp dân sự thuần túy”[14] và đối tượng tranh chấp của chúng không phải là đất đai (tức là BĐS), mà đối tượng của các dạng tranh chấp này chính là quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng. Do đó, không phải tất cả các tranh chấp đất đai đều có đối tượng là đất đai (tức BĐS).

3.2. Xác định tranh chấp có đối tượng là đất đai

Các loại tranh chấp sau đây được xác định là tranh chấp có đối tượng là đất đai (một trong các loại BĐS) và thẩm quyền giải quyết đối với các loại tranh chấp này sẽ do Tòa án nơi có BĐS giải quyết. Cụ thể:

Thứ nhất, tranh chấp về quyền sử dụng đất (tranh chấp về việc xác định ai là người có quyền sử dụng đất), gồm các loại sau: Tranh chấp về ranh giới quyền sử dụng đất; tranh chấp do lấn, chiếm đất; tranh chấp đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước.

Thứ hai, tranh chấp về quyền khác đối với tài sản như: Tranh chấp quyền về lối đi đối với BĐS liền kề (chủ sử dụng đất liền kề phía trước không cho chủ sử dụng đất bị vây bọc phía trong đi qua phần đất của mình để ra đường công cộng, rào lại lối đi); tranh chấp quyền về tưới nước, tiêu nước trong canh tác; tranh chấp quyền về cấp, thoát nước qua BĐS liền kề; tranh chấp về quyền thoát nước thải, nước mưa[15].

Các tranh chấp liên quan đến giao dịch về quyền sử dụng đất có đối tượng tranh chấp là quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình giao kết, thực hiện giao dịch nên Tòa án có thẩm quyền giải quyết các dạng tranh chấp này được xác định theo nơi cư trú của bị đơn hoặc theo sự thỏa thuận của đương sự, sự lựa chọn của nguyên đơn, cụ thể gồm các loại sau: Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất. Tương tự vậy, các tranh chấp quyền sử dụng đất trong quan hệ hôn nhân và gia đình (chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất khi ly hôn hoặc sau khi ly hôn); tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất thì đối tượng tranh chấp cũng không phải là quyền sự dụng đất mà là tranh chấp về quan hệ thừa kế (quyền thừa kế; diện và hàng thừa kế, xác định di sản…) nên Tòa án có thẩm quyền giải quyết vẫn theo nguyên tắc chung là nơi bị đơn cư trú.

4. Bất cập và kiến nghị về thẩm quyền của Tòa án đối với tranh cấp có đối tượng là bất động sản

4.1. Bất cập

Mặc dù còn tồn tại nhiều vấn đề và vướng mắc liên quan đến việc xác định tranh chấp có đối tượng là BĐS như đã trình bày nhưng đến nay vẫn chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào đang có hiệu lực để hướng dẫn về vấn đề này. Do đó, gây rất nhiều khó khăn và lúng túng cho các Tòa án địa phương, trong nhiều trường hợp kéo dài thời gian giải quyết vụ án do phải chuyển qua chuyển lại giữa các Tòa án, cũng như gây phiền hà, thậm chí bức xúc cho người dân.

Trước đây, vấn đề này được quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng đến nay đều đã hết hiệu lực và trong các Hội nghị giải đáp trực tuyến của Tòa án nhân dân tối cao, việc giải đáp (không chính thức, theo quan điểm của cá nhân người giải đáp) về việc xác định một vụ tranh chấp cụ thể có phải là tranh chấp có đối tượng là BĐS hay không đã không còn phù hợp với nội dung hướng dẫn của các nghị quyết trước đây[16].

Nội dung hướng dẫn về vấn đề đang đề cập của các nghị quyết trước đây như sau:

Điểm c khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định: “Tòa án nơi có BĐS có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về BĐS”. Sau đó, Bộ luật này được sửa đổi vào năm 2011 nhưng về nội dung này vẫn giữ nguyên.

Văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 là Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 thì chưa có hướng dẫn chi tiết về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ nói chung và thẩm quyền của Tòa án đối với những tranh chấp về BĐS.

Văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 là Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011, quy định như sau:

“1. Về nguyên tắc chung thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

...

3. Đối với tranh chấp về bất động sản quy định tại điểm c khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì chỉ có Tòa án nơi có bất động sản mới có thẩm quyền giải quyết.

4. Trong vụ án về hôn nhân và gia đình, thừa kế tài sản,... mà có tranh chấp về bất động sản thì thẩm quyền giải quyết của Tòa án được xác định theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự”[17].

Khoản 4 Điều 8 của Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP được thiết kế theo hình thức liệt kê và có đề cập đến 02 loại quan hệ tranh chấp là tranh chấp về hôn nhân và gia đình và tranh chấp về thừa kế tài sản, còn đối với những loại tranh chấp khác, ví dụ: Tranh chấp liên quan đến các giao dịch về quyền sử dụng đất như hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất (như tặng cho, chuyển đổi, chuyển nhượng, góp vốn), giao dịch có liên quan đến quyền sử dụng đất khác mà không chuyển quyền sử dụng đất như đặt cọc để bảo đảm chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp quyền sử dụng đất thì áp dụng nguyên tắc nào để xác định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ, có áp dụng tương tự như hướng dẫn này được không? Phải hiểu như thế nào về đối tượng tranh chấp là BĐS? Đó đều là những câu hỏi có rất nhiều kết quả giải đáp khác nhau và tất yếu dẫn đến sự phiền lụy cho đương sự do vụ án phải chuyển lòng vòng giữa các Tòa án nơi có BĐS và Tòa án nơi bị đơn cư trú với nhau mà không có hồi kết. Thực tiễn cũng đã có trường hợp, vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà địa chỉ nơi cư trú của bị đơn và nơi BĐS tọa lạc thuộc các huyện của các tỉnh khác nhau. Do quan điểm, nhận thức về đối tượng tranh chấp trong vụ án này còn khác nhau (Tòa án nơi có BĐS xác định đối với vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối tượng không phải là BĐS mà là quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng nên Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phải là Tòa án nơi bị đơn cư trú, còn Tòa án nơi bị đơn cư trú thì có quan điển ngược lại) nên vụ án đã phải chuyển qua chuyển lại giữa hai Tòa án cấp huyện đến 04 lần, chỉ tính thời gian chuyển án qua lại thôi cũng mất đến vài năm mà chưa giải quyết gì liên quan đến nội dung vụ án cũng như chưa có kết quả giải quyết cuối cùng.

Hiện nay, toàn bộ các văn bản nêu trên đã hết hiệu lực thi hành nhưng vẫn chưa có văn bản hướng dẫn mới được ban hành để thay thế nhằm thống nhất nhận thức, khắc phục tình trạng kéo dài thời gian giải quyết vụ án do loay hoay xác định Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết. Đến thời điểm hiện tại, vấn đề xác định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ đối với tranh chấp có đối tượng là BĐS chưa được hướng dẫn đầy đủ, toàn diện, khoa học, có tiêu chí cụ thể bằng văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ được hướng dẫn thông qua giải đáp nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tối cao cho một trường hợp cụ thể là chia tài sản là BĐS sau khi ly hôn mà nơi cư trú của bị đơn và nơi có BĐS khác nhau, cụ thể tại Điều 7 Mục III Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của Tòa án nhân dân Tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử như sau:

“7. Trường hợp vụ án tranh chấp chia tài sản là bất động sản sau khi ly hôn mà nơi cư trú của bị đơn và nơi có bất động sản tranh chấp khác nhau thì Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết?

Theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn là tranh chấp về hôn nhân và gia đình.

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì: “Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này”.

Trường hợp này, quan hệ hôn nhân chấm dứt do vợ chồng đã ly hôn, nhưng tranh chấp tài sản sau ly hôn vẫn là tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nên căn cứ các quy định nêu trên thì Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết”[18].

Có thể thấy, việc xác định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ đối với tranh chấp về hôn nhân và gia đình mà có tranh chấp liên quan đến BĐS thì về cơ bản vẫn kế thừa tinh thần của Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP.

4.2. Kiến nghị

Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 theo hướng như sau:

Một là, tranh chấp có đối tượng là BĐS theo hướng: Tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất; ai là chủ sở hữu nhà; đòi lại nhà đất bị chiếm hữu trái phép; tranh chấp về các quyền khác đối với BĐS. Theo đó, để xác định “chỉ có Tòa án nơi có BĐS mới có thẩm quyền giải quyết” nhằm giúp cho Tòa án có điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết vụ án, thu thập chứng cứ, xác minh nguồn gốc, giấy tờ về BĐS, cũng như việc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền quản lý đất đai cung cấp tài liệu, chứng cứ.

Hai là, tranh chấp liên quan đến BĐS gồm: Tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất; tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất; chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất./.

Châu Nữ Thu Hân

Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp

Nguyễn Hoàng Hải

Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh


[1] Khoản 1 Điều 107 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[2] Xem thêm điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Vướng mắc về thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng của Tòa án theo lãnh thổ, https://thuvienphapluat.vn/banan/tin-tuc/vuong-mac-ve-tham-quyen-giai-quyet-tranh-chap-hop-dong-cua-toa-an-theo-lanh-tho-5582, truy cập ngày 27/12/2022.

[4] Chuyên đề Kỹ năng giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, https://sonla.toaan.gov.vn/webcenter/portal/sonla/chitietchidaodieuhanh?dDocName=TAND088329, truy cập ngày 27/12/2022.

[5] Luật sư Hoàng Lê Khánh Linh, Tòa nào giải quyết án tranh chấp thừa kế mà có tranh chấp về bất động sản?, https://luatminhkhue.vn/toa-nao-giai-quyet-an-tranh-chap-thua-ke-ma-co-tranh-chap-ve-bat-dong-san.aspx, truy cập ngày 01/08/2023.

[6] Đoàn Khắc Độ, Nhận dạng “tranh chấp về BĐS” và “tranh chấp liên quan đến BĐS”, https://thuvienphapluat.vn/chinh-sach-phap-luat-moi/vn/thoi-su-phap-luat/tranh-chap/19731/nhan-dang-tranh-chap-ve-bds-va-tranh-chap-lien-quan-den-bds, truy cập ngày 01/08/2022.

[7] Ví dụ: Trong lĩnh vực đất đai để thấy tranh chấp về đất đai có nội hàm rộng hơn rất nhiều so với tranh chấp liên quan đến đất đai và tranh chấp có đối tượng là đất đai. Theo đó, tranh chấp về đất đai có thể hiểu bao gồm cả tranh chấp về địa giới hành chính, các tranh chấp về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất… tức là tất cả các loại tranh chấp mà có yếu tố đất đai, hay hàm chứa yếu tố này, một phần hoặc toàn bộ, đất đai có thể là đối tượng có thể là nguyên nhân (một phần hoặc toàn bộ, trực tiếp hoặc gián tiếp) dẫn đến tranh chấp.

[8] ThS. Đinh Thuỳ Dung, Xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan đến bất động sản, https://luatduonggia.vn/xac-dinh-toa-an-co-tham-quyen-giai-quyet-tranh-chap-lien-quan-den-bat-dong-san/, truy cập ngày 01/08/2023.

[9] Xem thêm điểm i khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nếu tranh chấp BĐS mà BĐS có ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một trong các BĐS giải quyết. Việc lựa chọn Tòa án giải quyết nhưng vẫn phải bảo đảm nguyên tắc là Tòa án nơi có BĐS.

[10] Quy định về thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn tại điểm g khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 như sau: “g) Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết”.

[11] Xem thêm Điều 7 Mục III Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của Tòa án nhân dân tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử.

[12] Xem: Khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013.

[13] Mai Thị Tú Oanh, “Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án ở nước ta”, Luận án Tiến sĩ Luật học, tr. 38, https://www.slideshare.net/trongthuy3/luan-an-giai-quyet-tranh-chap-dat-dai-bang-toa-an-o-nuoc-ta, truy cập ngày 01/8/2023.

[14] Mai Thị Tú Oanh, “Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án ở nước ta”, Luận án tiến sĩ Luật học, tr.37, dẫn theo https://www.slideshare.net/trongthuy3/luan-an-giai-quyet-tranh-chap-dat-dai-bang-toa-an-o-nuoc-ta, truy cập ngày 01/08/2022.

[15] Các tranh chấp này thuộc nhóm tranh chấp về quyền sử dụng hạn chế (được quyền sử dụng đất để phục vụ cho một mục đích nhất định chứ không được toàn quyền sử dụng - quyền sử dụng đất đầy đủ) đối với bđs (thửa đất) liền kề và người chủ sử dụng đất khi xác lập, chấm dứt, thay đổi quyền này phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 95 Luật Đất đai năm 2013, Điều 73 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai.

[16] Trong một Hội nghị giải đáp trực tuyến của Tòa án nhân dân tối cao ngày 28/3/2022, người chủ trì có giải đáp nội dung tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất thì đối tượng tranh chấp là BĐS nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nơi có BĐS. Tuy nhiên, khi Tòa án nhân dân tối cao ban hành Giải đáp số 206/TANDTC-PC ngày 27/12/2022 về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong công tác xét xử nêu trên lại không đề cập đến nội dung này.

[17] Điều 8 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[18] Điều 7 Mục III Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của Tòa án nhân dân tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

Trợ giúp pháp lý là chính sách nhân văn sâu sắc, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là những người yếu thế trong xã hội, người có công với cách mạng. Đồng thời, đây cũng là công cụ quan trọng nhằm bảo đảm công lý, để mọi người dân đều được tiếp cận pháp luật bình đẳng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Ngày 15/8/2025, Bộ Tư pháp đã có Văn bản số 5006/BTP-HCTP về giải pháp khắc phục các khó khăn, vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp gửi Văn phòng Trung ương Đảng, trong đó, xác định rõ nguyên nhân và những giải pháp để kịp thời khắc phục các khó khăn, vướng mắc.
Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Theo Pháp lệnh số 08/2025/UBTVQH15 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 27/6/2025, kể từ ngày 01/7/2025, Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền theo lãnh thổ tiếp nhận nhiệm vụ xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng mà Tòa án nhân dân cấp huyện đang giải quyết.
Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai được thành lập ngày 01/7/2025 trên cơ sở hợp nhất Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 huyện Văn Bàn (cũ) và Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 4 huyện Bảo Yên (cũ). Từ khi được thành lập, Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 thích ứng mô hình chính quyền địa phương hai cấp, bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập.
Xác định đối tượng trợ giúp pháp lý là người dân tộc thiểu số vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi triển khai chính quyền địa phương hai cấp

Xác định đối tượng trợ giúp pháp lý là người dân tộc thiểu số vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi triển khai chính quyền địa phương hai cấp

Sau khi thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền địa phương hai cấp, việc xác định đối tượng trợ giúp pháp lý người dân tộc thiểu số vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn phát sinh một số bất cập cần có giải pháp tháo gỡ.
Trung tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh Lào Cai tiếp tục nỗ lực, thực sự là điểm tựa pháp lý tin cậy cho người dân

Trung tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh Lào Cai tiếp tục nỗ lực, thực sự là điểm tựa pháp lý tin cậy cho người dân

Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền tiếp cận công lý của công dân, đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các nhóm yếu thế được xác định là một mục tiêu trọng tâm. Trợ giúp pháp lý là công cụ hữu hiệu, cầu nối đưa chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, bảo đảm công bằng xã hội và củng cố niềm tin của Nhân dân.
Điều kiện được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội từ ngày 01/7/2025

Điều kiện được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội từ ngày 01/7/2025

Ngày 30/6/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 176/2025/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về trợ cấp hưu trí, trong đó đã thể chế hóa các chính sách về trợ cấp hưu trí xã hội đối với người cao tuổi, đặc biệt là những người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn, thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo không được hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025.
Nới lỏng điều kiện cho người chưa thành niên khi xin nhập quốc tịch Việt Nam

Nới lỏng điều kiện cho người chưa thành niên khi xin nhập quốc tịch Việt Nam

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam được Quốc hội khóa XV thông qua ngày 24/6/2025 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2025. Luật đã nới lỏng điều kiện liên quan đến việc nhập quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các trường hợp có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam; nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài... được nhập quốc tịch Việt Nam.
Quy định pháp luật về quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật và kiến nghị hoàn thiện

Quy định pháp luật về quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật và kiến nghị hoàn thiện

Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý, là chính sách nhân văn của Đảng và Nhà nước, giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhóm người yếu thế trong xã hội, trong đó có người khuyết tật.
Áp dụng thống nhất chuẩn nghề nghiệp nhà giáo trong cơ sở giáo dục công lập và cơ sở giáo dục ngoài công lập

Áp dụng thống nhất chuẩn nghề nghiệp nhà giáo trong cơ sở giáo dục công lập và cơ sở giáo dục ngoài công lập

Đây là một trong những nội dung quan trọng của Luật Nhà giáo năm 2025 nhằm xác lập vị trí pháp lý đầy đủ cho nhà giáo trong cả cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập.
Điều kiện để được hưởng chế độ tiền lương và phụ cấp cao hơn so với nhà giáo làm việc trong điều kiện bình thường

Điều kiện để được hưởng chế độ tiền lương và phụ cấp cao hơn so với nhà giáo làm việc trong điều kiện bình thường

Đây là một trong những nội dung mới quan trọng được quy định tại Luật Nhà giáo năm 2025 nhằm thu hút và hỗ trợ nhà giáo về công tác tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn
Hoạt động tổ chức điểm cầu thành phần phiên tòa trực tuyến tại Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lai Châu: Bước tiến quan trọng trong quá trình cải cách tư pháp và ứng dụng công nghệ thông tin

Hoạt động tổ chức điểm cầu thành phần phiên tòa trực tuyến tại Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lai Châu: Bước tiến quan trọng trong quá trình cải cách tư pháp và ứng dụng công nghệ thông tin

Trong quá trình sắp xếp tổ chức chính quyền địa phương hai cấp cũng như tinh gọn bộ máy của các cấp, các ngành, việc ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số giảm thiểu thủ tục hành chính để giải quyết công việc luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm chỉ đạo. Việc xét xử trực tuyến phù hợp với chủ trương của Đảng, phù hợp với thực tiễn, bảo đảm tư pháp không chậm trễ, tiết kiệm chi phí xã hội.
Học sinh người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo thường trú tại xã khu vực II, khu vực I được hưởng chính sách bán trú

Học sinh người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo thường trú tại xã khu vực II, khu vực I được hưởng chính sách bán trú

Đây là một trong những điểm mới đáng chú ý của Nghị định số 66/2025/NĐ-CP ngày 12/3/2025 của Chính phủ quy định chính sách cho trẻ em nhà trẻ, học sinh, học viên ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo và cơ sở giáo dục có trẻ em nhà trẻ, học sinh hưởng chính sách (Nghị định số 66/2025/NĐ-CP). Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 01/5/2025 và thay thế Nghị định số 116/2016/NĐ-CP ngày 18/7/2016 của Chính phủ quy định chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn và Thông tư liên tịch số 109/2009/TTLT/BTC-BGDĐT ngày 29/5/2009 của Bộ Tài chính và Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn một số chế độ tài chính đối với học sinh các trường phổ thông dân tộc nội trú và các trường dự bị đại học dân tộc.
Phát triển hệ thống luật sư trợ giúp pháp lý chuyên nghiệp, chất lượng cao, có phạm vi phục vụ toàn quốc

Phát triển hệ thống luật sư trợ giúp pháp lý chuyên nghiệp, chất lượng cao, có phạm vi phục vụ toàn quốc

Đây là mục tiêu đến năm 2030 của Liên đoàn Luật sư Việt Nam góp phần mở rộng quyền tiếp cận trợ giúp pháp lý đến các đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương, bảo đảm nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Bảo đảm quyền được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho các đối tượng được trợ giúp pháp lý khi Nhà nước thu hồi đất

Bảo đảm quyền được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho các đối tượng được trợ giúp pháp lý khi Nhà nước thu hồi đất

Sau hơn 01 năm thi hành, Luật Đất đai năm 2024 (được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Luật số 43/2024/QH15) đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người sử dụng đất, đặc biệt đối với những người thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, Luật vẫn còn tồn tại một số vướng mắc, bất cập đòi hỏi phải tiếp tục được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Từ thực tiễn này, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã triển khai xây dựng dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai nhằm tháo gỡ những khó khăn trong quá trình tổ chức, thi hành Luật, trong đó có việc sửa đổi các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi