
Tinh gọn bộ máy - yêu cầu cấp thiết phát triển đất nước trong giai đoạn mới
Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới - giai đoạn của khát vọng vươn lên mạnh mẽ, khẳng định vị thế dân tộc trên trường quốc tế. Thực hiện định hướng phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, nhiều đổi mới lớn về tổ chức bộ máy và thể chế đang được triển khai đồng bộ, trong đó có việc tinh gọn hệ thống chính quyền địa phương. Theo Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 24/12/2018 của Bộ Chính trị về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã, Nghị quyết số 203/2025/QH15 ngày 16/6/2025 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Nghị quyết số 203/2025/QH15), cả nước đang từng bước sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp tỉnh, giảm từ 63 xuống 34 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đồng thời bãi bỏ mô hình tổ chức chính quyền cấp huyện, chỉ duy trì hai cấp chính quyền (cấp tỉnh và cấp xã).
Đây không chỉ là quyết sách hành chính đơn thuần mà là minh chứng cho quyết tâm chính trị lớn của Đảng và Nhà nước trong việc đổi mới toàn diện, xây dựng bộ máy “tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả”, hướng đến một nền hành chính phục vụ Nhân dân, phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh mới. Tuy nhiên, mọi cuộc cải cách thể chế lớn đều đặt ra không ít thách thức trong giai đoạn đầu, đặc biệt là những lỗ hổng, vướng mắc về quy định pháp luật và triển khai thực tiễn. Một trong những vấn đề nổi bật hiện nay là việc xác định đối tượng được trợ giúp pháp lý miễn phí đối với người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, khi tiêu chí phân vùng, địa bàn ưu tiên cũng có những thay đổi theo mô hình tổ chức mới.
Cách xác định người được trợ giúp pháp lý là người dân tộc thiểu số vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn
Theo quy định tại khoản 4 Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, người dân tộc thiểu số cư trú tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn là một trong những đối tượng được hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí của Nhà nước. Quy định này không chỉ thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc mà còn cụ thể hóa nguyên tắc “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” - một giá trị cốt lõi được Hiến pháp và các chính sách của Đảng, Nhà nước luôn nhất quán. Việc tạo điều kiện tiếp cận công lý cho những người yếu thế, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, là minh chứng cho sự quan tâm, ưu tiên rõ nét của Đảng và Nhà nước đối với khu vực miền núi, biên giới, hải đảo - nơi mà điều kiện sống và tiếp cận dịch vụ công vẫn còn nhiều hạn chế.
Để xác định chính xác địa bàn cư trú của người dân tộc thiểu số có thuộc diện “vùng đặc biệt khó khăn” hay không, từ đó làm căn cứ hưởng trợ giúp pháp lý, các Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước và cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào hệ thống các văn bản pháp luật, cụ thể: Quyết định số 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh sách các xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025 (Quyết định số 861/QĐ-TTg); Quyết định số 433/QĐ-UBDT ngày 18/6/2021 của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc phê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025 (Quyết định số 433/QĐ-UBDT); Quyết định số 497/QĐ-UBDT ngày 30/7/2024 của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc phê duyệt điều chỉnh, bổ sung và hiệu chỉnh tên huyện, xã, thôn đặc biệt khó khăn, thôn thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025 (Quyết định số 497/QĐ-UBDT).
Ngày 11/6/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 124/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực công tác dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo (Nghị định số 124/2025/NĐ-CP), có hiệu lực từ ngày 01/7/2025 và hết hiệu lực từ ngày 01/3/2027 (trừ trường hợp được cấp có thẩm quyền quyết định kéo dài thời gian áp dụng toàn bộ hoặc một phần Nghị định này). Theo Điều 7 Nghị định số 124/2025/NĐ-CP, việc phê duyệt danh sách xã khu vực III, II, I và công nhận thôn đặc biệt khó khăn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025 như sau:
(i) Việc phê duyệt danh sách xã khu vực III, II, I và công nhận thôn đặc biệt khó khăn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025 quy định tại khoản 4 Điều 7 Quyết định số 33/2020/QĐ-TTg ngày 12/11/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí phân định vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển giai đoạn 2021 - 2025 (Quyết định số 33/2020/QĐ-TTg) thuộc thẩm quyền thực hiện của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
(ii) Trình tự, thủ tục xác định xã khu vực III, II, I và thôn đặc biệt khó khăn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025 như sau:.
- Ủy ban nhân dân cấp xã căn cứ tiêu chí quy định tại các điều 2, 3, 4, 5, 6 Quyết định số Quyết định số 33/2020/QĐ-TTg để xác định xã khu vực III, II, I và thôn đặc biệt khó khăn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển giai đoạn 2021 - 2025; lập báo cáo kết quả xác định gửi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện.
- Trong thời hạn 45 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ của các xã, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh rà soát, thẩm định, quyết định phê duyệt danh sách các thôn đặc biệt khó khăn và công nhận danh sách các xã khu vực III, II, I thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025.
- Trường hợp hồ sơ, tài liệu chưa bảo đảm quy định, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có văn bản trả lời và nêu rõ lý do.
(iii) Hồ sơ xác định xã khu vực III, II, I và thôn đặc biệt khó khăn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025: Bảng đánh giá của xã và các thôn về mức độ đạt hoặc không đạt tiêu chí quy định tại các điều 2, 3, 4, 5, 6 Quyết định số 33/2020/QĐ-TTg; báo cáo kết quả và danh sách chi tiết xác định các xã khu vực III, II, I và thôn được xác định đặc biệt khó khăn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025; quyết định phê duyệt kết quả xác định tỷ lệ hộ nghèo của cấp có thẩm quyền đối với các xã, thôn; số liệu về dân số, tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số, hộ nghèo là hộ dân tộc thiểu số và số liệu, tài liệu của xã, thôn có liên quan đến các tiêu chí quy định tại các điều 2, 3, 4, 5, 6 Quyết định số 33/2020/QĐ-TTg.
(iv) Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong việc phê duyệt danh sách xã khu vực III, II, I và công nhận thôn đặc biệt khó khăn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025:
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ tiêu chí quy định tại Quyết định số 33/2020/QĐ-TTg chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức rà soát, lập danh sách xã khu vực III, II, I và thôn đặc biệt khó khăn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025 gửi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, phê duyệt.
- Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm: Căn cứ các tiêu chí quy định tại Quyết định số 33/2020/QĐ-TTg, tổ chức rà soát, lập hồ sơ xác định danh sách xã khu vực III, II, I và thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025 gửi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định; cung cấp và chịu trách nhiệm về tính chính xác của các tài liệu, số liệu có liên quan trong quá trình kiểm tra, rà soát xác định xã khu vực III, II, I và thôn đặc biệt khó khăn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025.
Điểm nhấn quan trọng trong cơ chế mới là chuyển vai trò từ trung ương sang địa phương - từ mô hình “trung ương xét duyệt, địa phương kiến nghị” sang “địa phương quyết định, trung ương giám sát và cập nhật”. Việc giao quyền phê duyệt danh sách vùng đặc biệt khó khăn cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh không chỉ phù hợp với thực tiễn quản lý, vì chính địa phương mới là nơi nắm sát nhất điều kiện dân cư và địa bàn, mà còn thể hiện tư duy đổi mới mạnh mẽ của Chính phủ về phân cấp, phân quyền, theo đúng tinh thần Nghị quyết số 04/NQ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước.
Bất cập trong xác định đối tượng trợ giúp pháp lý khi triển khai chính quyền hai cấp
Việc thực hiện chính quyền địa phương hai cấp, phân quyền, phân quyền đòi hỏi yêu cầu cao về năng lực quản trị, tính minh bạch, khách quan và trách nhiệm giải trình của chính quyền cấp tỉnh. Trong bối cảnh sáp nhập đơn vị hành chính và thay đổi địa giới hành chính hàng loạt, nếu không có cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ và hướng dẫn kịp thời, việc xác định sai hoặc chậm cập nhật danh sách xã, thôn đặc biệt khó khăn có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền được hưởng trợ giúp pháp lý miễn phí của người dân tộc thiểu số - nhóm vốn đã gặp nhiều bất lợi trong việc tiếp cận pháp luật.
Bên cạnh đó, một trong những khó khăn lớn nhất hiện nay đối với các Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước và các cơ quan liên quan là việc xác định địa bàn cư trú của người dân tộc thiểu số có thuộc vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hay không để làm căn cứ hưởng trợ giúp pháp lý miễn phí. Theo quy định, cơ sở pháp lý để tra cứu hiện vẫn là các văn bản như Quyết định số 861/QĐ-TTg, Quyết định số 433/QĐ-UBDT và Quyết định số 497/QĐ-UBDT. Tuy nhiên, các văn bản này đều được ban hành trên cơ sở mô hình tổ chức chính quyền ba cấp (tỉnh - huyện - xã), hiện đã không còn phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2024 và Nghị quyết số 203/2025/QH15. Trong khi đó, chưa có quyết định nào mới được ban hành kịp thời để thay thế hoặc cập nhật danh sách xã, thôn đặc biệt khó khăn theo mô hình tổ chức mới, dẫn đến khoảng trống pháp lý và sự lúng túng trong áp dụng.
Chính vì vậy, khi tiếp nhận và xử lý hồ sơ trợ giúp pháp lý, các Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước và cơ quan phối hợp vẫn phải căn cứ hệ thống văn bản không còn tương thích với địa danh, địa giới hành chính mới. Điều này đặt ra gánh nặng kép: Vừa phải tra cứu thủ công, đối chiếu địa danh cũ, vừa phải ghi chú, cập nhật thêm địa chỉ hành chính mới theo dữ liệu dân cư quốc gia (VNeID) - nơi thông tin cư trú của người dân đã được đồng bộ theo mô hình hành chính mới (điều này cũng đã được đồng bộ trên hệ thống quản lý trợ giúp pháp lý quốc gia).
Việc vừa tra cứu song song trên hai hệ thống thông tin, lại thiếu văn bản hướng dẫn chuyển tiếp và liên thông dữ liệu, không chỉ gây tốn thời gian, nhân lực và dễ sai sót trong khâu xác minh, mà còn dẫn đến tình trạng kéo dài thời gian xử lý hồ sơ, làm chậm tiến độ tiếp cận trợ giúp pháp lý của người dân. Ngoài ra, sự chậm trễ trong việc ban hành quyết định danh sách xã, thôn đặc biệt khó khăn tại cấp tỉnh (như quy định tại Nghị định số 124/2025/NĐ-CP) cũng làm trì hoãn việc cập nhật cơ sở dữ liệu quốc gia, ảnh hưởng đến các chính sách khác liên quan như giáo dục, y tế, giảm nghèo và bảo hiểm xã hội vốn có tiêu chí ưu tiên vùng khó khăn. Tình trạng này nếu kéo dài sẽ dẫn đến thiếu thống nhất trong thực hiện chính sách ở các tỉnh, tạo khoảng cách trong bảo đảm quyền tiếp cận công lý giữa các địa phương.
Kiến nghị hoàn thiện chính sách và giải pháp chuyển tiếp
Trước những bất cập và hệ lụy nêu trên, để bảo đảm quyền được tiếp cận trợ giúp pháp lý của người dân tộc thiểu số sống tại vùng đặc biệt khó khăn không bị gián đoạn trong giai đoạn chuyển đổi mô hình chính quyền và chưa ban hành hệ thống văn bản thay thế phù hợp, cần sớm có giải pháp đồng bộ về thể chế, công nghệ và quản trị dữ liệu như sau:
Thứ nhất, cần khẩn trương ban hành danh sách xã, thôn đặc biệt khó khăn theo thẩm quyền mới được quy định tại Nghị định số 124/2025/NĐ-CP. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, với vai trò là cơ quan có thẩm quyền chính thức, cần chủ động phối hợp với các sở, ngành liên quan để tiến hành rà soát, lập và công bố danh sách xã, thôn đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh. Việc này vừa giúp thống nhất quản lý nhà nước về vùng chính sách, vừa tạo căn cứ pháp lý rõ ràng để các Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước áp dụng thuận lợi, chính xác.
Thứ hai, cần ban hành hướng dẫn tạm thời về việc xác minh diện người được trợ giúp pháp lý trong giai đoạn chuyển tiếp, cho phép các Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tiếp tục áp dụng tạm thời các quyết định như Quyết định số 861/QĐ-TTg, Quyết định số 433/QĐ-UBDT và Quyết định số 497/QĐ-UBDT kết hợp với dữ liệu cư trú hiện hành từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (VNeID) để xác định địa bàn cư trú thực tế của người dân.
Thứ ba, cần thiết lập cơ chế kết nối dữ liệu giữa hệ thống trợ giúp pháp lý và hệ thống quản lý danh sách các xã, thôn đặc biệt khó khăn. Đây là giải pháp căn cơ, bền vững để bảo đảm việc tra cứu thông tin đối tượng thụ hưởng được nhanh chóng, chính xác và thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Cụ thể: (i) Các cơ quan chức năng có thẩm quyền cấp trung ương cần phối hợp để tích hợp danh sách xã, thôn đặc biệt khó khăn (do Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt) vào hệ thống phần mềm quản lý trợ giúp pháp lý, đồng thời kết nối với cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia để tự động xác định đối tượng đủ điều kiện; (ii) Các Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước khi tra cứu hồ sơ có thể đối chiếu địa chỉ cư trú của người dân được đồng bộ với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (trên VNeID) với danh sách xã, thôn được cập nhật tự động trên hệ thống quản lý trợ giúp pháp lý, không cần tra cứu thủ công từ văn bản giấy như hiện nay, vừa tiết kiệm thời gian, vừa giảm nguy cơ sai sót.
Thứ tư, cần có chỉ đạo thống nhất toàn quốc về áp dụng chính sách ưu tiên bảo vệ quyền lợi của người dân tộc thiểu số trong giai đoạn chuyển tiếp. Trong đó, đối với các trường hợp có địa chỉ cư trú thuộc khu vực giáp ranh hoặc đang trong quá trình sắp xếp hành chính nên áp dụng nguyên tắc “có lợi cho người dân” để tạm thời công nhận đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý, tránh để người dân chịu thiệt thòi vì lý do kỹ thuật hành chính.
Việc bảo đảm tính kịp thời, minh bạch và hiệu quả trong xác minh đối tượng thuộc diện trợ giúp pháp lý miễn phí, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số vùng đặc biệt khó khăn, không chỉ là yêu cầu chuyên môn, mà còn là trách nhiệm chính trị và pháp lý của Nhà nước bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau trong hành trình tiếp cận công lý.
Ảnh: Internet