1. Nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong xây dựng và phát triển đất nước
Trong các văn kiện của Đảng, thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” (XHCN) lần đầu tiên xuất hiện trong Cương lĩnh chính trị bổ sung, phát triển năm 2011 khi Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định XHCN mà Nhân dân ta xây dựng là xã hội “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”[1]. Đến Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (tháng 01/1994) tiếp tục khẳng định: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII tiếp tục khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và nhấn mạnh định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 cần: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”[2]. Vậy, Nhà nước pháp quyền XHCN hiểu như thế nào mới đầy đủ, có ý nghĩa như thế nào trong đời sống chính trị - pháp lý Việt Nam?
Một số nhà khoa học pháp lý của Việt Nam đã đưa ra những nhận định về Nhà nước pháp quyền XHCN. Theo GS. TSKH. Lê Văn Cảm thì Nhà nước pháp quyền XHCN là: “(i) Tổ chức quyền lực công khai và minh bạch trong hệ thống chính trị của xã hội công dân, (ii) được xây dựng trên nền tảng các tư tưởng pháp lý tiến bộ nhất của nhân loại (là: công bằng và nhân đạo, dân chủ và pháp chế) nhằm (iii) bảo đảm thực sự những giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh thế giới như: (iv) sự ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền và tự do của con người và của công dân, (v) sự ngự trị của pháp luật trong các lĩnh vực sinh hoạt của xã hội, (vi) tính tối cao của luật và sự kiểm soát quyền lực trong các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, cũng như sự phân công và phối hợp hữu hiệu giữa các nhánh quyền lực (như lập pháp, hành pháp, tư pháp) và (vii) chủ quyền của Nhân dân mà trước hết là chủ quyền lập hiến”[3]. Trước đó, trong cuốn sách do GS. TSKH. Đào Trí Úc chủ biên lại cho rằng, Nhà nước pháp quyền XHCN là: “(i) Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của Nhân dân; (ii) Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp; (iii) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ; (iv) Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội; (v) Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do của công dân; (vi) Nhà nước và xã hội do một Đảng duy nhất lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam”[4].
Khó có thể tìm được sự đồng nhất tuyệt đối trong một khái niệm về Nhà nước pháp quyền XHCN, tuy nhiên, có thể thấy, trong các khái niệm trên đây do các nhà khoa học đưa ra, tựu chung lại đều có nhận định về pháp quyền, về hiến pháp, xác định cần phải có Hiến pháp, thậm chí là cần phải có chủ nghĩa hiến pháp như GS.TS. Nguyễn Đăng Dung đã chỉ ra, các yếu tố của chủ nghĩa Hiến pháp - chính quyền bị giới hạn quyền lực, gồm: (i) Chính quyền phù hợp với Hiến pháp; (ii) Phân quyền; (iii) Chủ quyền thuộc về Nhân dân; (iv) Tư pháp độc lập và có Tòa án Hiến pháp; (v) Luật dân quyền/quyền con người; (vi) Kiểm soát cảnh sát; (vii) Quân đội nằm dưới điều khiển của dân sự; (viii) Sự bất khả xâm phạm của Hiến pháp (không một thế lực nào đình chỉ hoạt động một phần hoặc toàn thể Hiến pháp)[5].
Sự tương đồng và khác biệt trong nghiên cứu là tất yếu, tùy thuộc vào việc tiếp cận và “giải mã” vấn đề. Nhà nước pháp quyền XHCN còn có những điểm khác biệt đã được xác định là do: “Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là vấn đề lớn, phức tạp, lâu dài; công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, hoàn thiện lý luận chưa được quan tâm đúng mức; quyết tâm chính trị, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền trong thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra”[6]. Tuy nhiên, dưới sự nỗ lực nghiên cứu của toàn Đảng, toàn dân trong hơn 30 năm qua thì: “Nhận thức, lý luận về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam ngày càng thống nhất, đầy đủ và sâu sắc hơn”. Đồng thời, Nghị quyết số 27-NQ/TW đã chỉ rõ 08 đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đó là: Do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật; Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán; độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế. Nghị quyết số 27-NQ/TW ra đời trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm hơn 30 năm lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và tiếp thu thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học trong nước để thống nhất về mặt nhận thức các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN. Đồng thời cũng là sự cụ thể hóa các nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra cho giai đoạn 2021 - 2030.
2. Phát triển đất nước và định hướng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã xác định các nhiệm vụ đối với Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 trong các lĩnh vực:
Một là, phát triển kinh tế: Cần phát huy các thành quả phát triển kinh tế hơn 35 năm đổi mới, đồng thời kiên trì phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, ổn định kinh tế vĩ mô, cơ cấu lại nền kinh tế, kiến tạo và phát triển kinh tế toàn quốc cả ở nông thôn và thành thị; thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia và phát triển kinh tế số. Giảm dần sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, tăng cường sự can thiệp vào nền kinh tế bằng công cụ chính sách, pháp luật.
Hai là, phát triển con người và xây dựng nền văn hóa Việt Nam: Tăng cường khả năng “miễn dịch” của dân tộc thông qua phương châm củng cố nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, khơi dậy truyền thống yêu nước và khát vọng dân tộc để mỗi người dân Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế có thể tự hào về văn hóa Việt Nam, thể hiện bản lĩnh, trí tuệ của người Việt.
Ba là, phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ: Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0. Thúc đẩy hội nhập với các quốc gia có nền khoa học tiên tiến để tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Đây cũng là quyết tâm chính trị để thực hiện mục tiêu Hiến định coi phát triển giáo dục và phát triển khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu[7]. Điều này tiếp tục đặt ra nhiệm vụ đối với Nhà nước pháp quyền XHCN là cần thúc đẩy xây dựng và hoàn thiện thể chế để giáo dục, khoa học - công nghệ phát triển.
Bốn là, quản lý phát triển xã hội theo hướng bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội; công bằng, bình đẳng trong thực thi chính sách và pháp luật về an sinh xã hội. Thực hiện thành công nhiệm vụ này chính là mục tiêu quan trọng của Nhà nước pháp quyền XHCN. Điều này cũng đòi hỏi cần phải kiểm soát tốt các vấn đề quyền lực nhà nước và lạm dụng quyền lực nhà nước trong khối công quyền để củng cố niềm tin của Nhân dân và thực hiện thành công các chính sách an sinh xã hội.
Năm là, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường: Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thời gian vừa qua đã xử lý hàng loạt các sự cố về môi trường, ban hành mới và sửa đổi luật pháp, chính sách liên quan đến lĩnh vực môi trường nhằm giảm tác động tiêu cực cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội, chủ động ứng phó với những tình huống vi phạm về môi trường hoặc thay đổi của thiên nhiên. Tuy nhiên, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thời gian tới cần chủ động quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên bền vững, bảo vệ cho thế hệ mai sau.
Sáu là, đối ngoại và bảo vệ Tổ quốc: Kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương; bảo vệ vững chắc, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc cả vùng biển, vùng trời, đất liền; bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, chế độ XHCN. Tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân để giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh kinh tế, an ninh mạng. Ngăn ngừa hiệu quả nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những nhân tố bất lợi, nhất là những nhân tố có thể gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước. Nhiệm vụ này đòi hỏi Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tiếp tục tăng cường hoàn thiện thể chế chính sách, pháp luật về an ninh đối ngoại, quốc phòng toàn dân, an ninh nội bộ trong nước, an ninh mạng, an ninh các vùng kinh tế... nhằm tạo lập môi trường pháp lý cần thiết để tăng cường thực thi quyền hành pháp đủ mạnh, đủ trấn áp các thế lực phản kháng trong nước và phản động nước ngoài.
Bảy là, đại đoàn kết toàn dân tộc: Tăng cường dân chủ để bảo đảm vị trí, vai trò của Nhân dân trong mọi hoạt động của xã hội. Các quyền của dân tộc thiểu số, vùng, miền, tôn giáo phải được bảo đảm. Tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên được hoạt động theo quy định của pháp luật để củng cố truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc. Để thực hiện được các nhiệm vụ trên đây, trong hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cũng đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng phải đạt được những mục tiêu cụ thể đến năm 2023 trong Nghị quyết số 27-NQ/TW.
3. Một số giải pháp hoàn thành nhiệm vụ phát triển đất nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền giai đoạn 2021 - 2030
Các nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII và mục tiêu cụ thể đến năm 2030 trong Nghị quyết số
27-NQ/TW cho thấy sự nhất quán trong quan điểm, đường lối xây dựng và phát triển đất nước cũng như xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN. Để đạt được những kết quả thiết thực, cần đặc biệt chú trọng một số giải pháp sau:
Thứ nhất, về phía Nhà nước và cá nhân có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước: Cần nâng cao ý thức “tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động”[8]; cần chú trọng các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa quyền dân chủ thực sự của Nhân dân trong mọi phương diện hoạt động quản lý nhà nước và xã hội. Cụ thể, cần chú trọng phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong giám sát và phản biện xã hội để không chỉ tăng cường tính đồng thuận trong Nhân dân mà còn giúp cho Nhân dân có thể kiểm soát tốt đối với các hoạt động của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước, tổ chức Đảng để ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực nhà nước, vị thế của tổ chức chính trị để tham nhũng và vi phạm các quyền dân chủ khác. Trong bối cảnh hiện nay, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình trong bảo vệ quyền lợi của hội viên, đoàn viên.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng khắc phục sự chồng chéo, khó hiểu trong luật để tăng tính phục vụ Nhân dân; bảo đảm sự rõ ràng, dễ hiểu, đơn giản trong pháp luật và thực thi pháp luật. Mọi chủ thể là đối tượng điều chỉnh của luật đều được dễ dàng tiếp cận pháp luật. Bảo đảm pháp luật phải là công cụ để kiềm chế sự lạm quyền của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền - “Nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”[9] thông qua việc “tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật”[10]. Tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước có hiệu quả thiết thực, hợp lý: “Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền”[11]. Đặc biệt, cần hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, cụ thể hóa và xây dựng cơ chế để các chủ thể thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp[12]. Đây cũng chính là quyết tâm chính trị nhằm cụ thể hóa nội dung đã được đặt ra trong Hiến pháp: “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”[13].
Cơ cấu lại tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước hướng đến sự tinh gọn, hoạt động hiệu quả; việc phân công, phân cấp, phân quyền rõ ràng trong cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung[14]. Để bảo đảm mọi cán bộ, công chức, viên chức nhà nước cần phải minh bạch, có trách nhiệm trong công vụ, công việc.
Thứ hai, đối với cơ quan, tổ chức, công dân: Cần bảo đảm lối sống tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và các chuẩn mực đạo đức xã hội. Chủ động tuân thủ, chấp hành pháp luật, áp dụng, sử dụng pháp luật đúng quy định trong bảo vệ quyền lợi của bản thân, tập thể, cộng đồng và Nhà nước.
TS. Lương Văn Tuấn
Học viện Tư pháp
Ảnh: Internet
[1]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xi/cuong-linh-xay-dung-dat-nuoc-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-bo-sung-phat-trien-nam-2011-1528, truy cập ngày 25/01/2024.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập II, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 332.
[3]. Lê Văn Cảm (2021), Chiến lược xây dựng nhà nước pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam: Một số vấn đề lý luận về khái niệm, nội hàm và định hướng phát triển 10 năm 2021 - 2030, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Chiến lược phát triển Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2045: Lý luận và Thực tiễn, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 45.
[4]. Đào Trí Úc (2006), Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 233 - 315.
[5]. Nguyễn Đăng Dung (2014), Sự phát triển của Chủ nghĩa Hiến pháp ở Việt Nam cho đến Hiến pháp năm 2013, Bình luận khoa học Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013, Nxb. Lao động - Xã hội, tr. 636.
[6]. Nghị quyết số 27-NQ/TW.
[7]. Điều 61, Điều 62 Hiến pháp năm 2013.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, tr. 284.
[9]. Lộc Thượng - Anh Minh (2023), Nhốt quyền lực trong lồng cơ chế, https://www.xaydungdang.org.vn/giai-bao-chi-toan-quoc-ve-xay-dung-dang/nhot-quyen-luc-trong-long-co-che-18950, truy cập ngày 25/02/2024.
[10]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, tr. 203.
[11]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, tr. 174 - 175.
[12]. Nghị quyết số 27-NQ/TW.
[13]. Đoạn 2 khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm 2013.
[14]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, tr. 178 - 179.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 399), tháng 2/2024)